Thứ Năm, 2 tháng 4, 2009

Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên

a. Giáo dục lý tưởng cách mạng

Con người ra đời, tồn tại và phát triển tất yếu phải tìm hiểu, nhận thức và cải tạo thế giới (tự nhiên, xã hội và bản thân). Việc nhận thức đó thường diễn ra từ đơn giản đến phức tạp, từ cái đơn lẻ, trực tiếp, con người ngày càng mở rộng tầm nhìn và đi sâu vào bản chất, tìm hiểu ngọn nguồn của mọi hiện tượng.

Kết quả của nhận thức là những quan niệm, quan điểm, nguyên tắc, hình thành lý tưởng, niềm tin, những định hướng giá trị chung và trở lại soi sáng định hướng cho cuộc sống cụ thể của con người.

Việc giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên là một trong những định hướng giáo dục xã hội chủ nghĩa cơ bản và quan trọng. Để có lý tưởng cách mạng phải thông qua sự phân tích, chứng minh có căn cứ lý luận và thực tiễn sâu sắc. Từ khi thế giới quan Mác - Lênin được Hồ Chí Minh truyền bá vào Việt Nam, vấn đề giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên đã được đặt ra và giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân.

- Bồi dưỡng thanh niên có nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, nâng cao ý chí phấn đấu vì lý tưởng cao cả là độc lập dân tộc và tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.

Trong lịch sử dân tộc, từ cuối thế kỷ XIX đến những năm đầu thế kỷ XX, đất nước ta trong cảnh nước mất nhà tan, nhân dân ta lầm than cơ cực, thanh niên không có tương lai. Có người muốn rửa vết nhơ nô lệ nhưng không được, rửa hận cũng không xong, không phải vì họ thiếu tinh thần và ý chí kiên cường dũng cảm, mà chính là thiếu phương hướng đúng đắn, thiếu người lãnh đạo dìu dắt đi lên.

Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên tìm ra con đường đúng đắn của cách mạng nước ta, đó là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng cách mạng của Người và con đường cách mạng do Người chỉ ra như luồng gió mới thổi vào nước ta, khi mà “sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết” (1). Cách mạng nước ta bước vào giai đoạn mới, với mục tiêu đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, người cày có ruộng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với thanh niên và dần dần trở thành hoài bão, lý tưởng của thanh niên nước ta.

Trong việc giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và thanh niên, Người luôn nhắc nhở: “Người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới” (2).

Lý tưởng cách mạng cao đẹp mà Hồ Chí Minh nói tới, và cũng là để giáo dục cho thanh niên, đó là: độc lập dân tộc, tự do và chủ nghĩa xã hội. Những nội dung ấy luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội - đó là phương hướng duy nhất để củng cố bền vững nền độc lập của dân tộc, bảo đảm cho mọi người có cuộc sống ngày càng ấm no, tự do và hanh phúc.

Lý tưởng cao đẹp mà chúng ta đang phấn đấu thực hiện đã được Hồ Chí Minh xác định khi gắn liền sự nghiệp giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, khi kết hợp chặt chẽ độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Con đường đi đến lý tưởng của Hồ Chí Minh là con đường đầy khó khăn gian khổ, không phải chỉ có nhiệt tình nóng bỏng của một trái tim yêu nước, mà còn có cả sự thông minh tuyệt vời của một khối óc vĩ đại; không phải chỉ bằng quan sát, tìm hiểu, học tập với một nghị lực phi thường, mà còn phải lăn lộn trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức, với tinh thần bất khuất của một chiến sĩ cách mạng kiên cường. Lại phải vượt qua nhiều lối mòn bế tắc với tinh thần dũng cảm của một người khai phá, Hồ Chí Minh mới tìm thấy được con đường đi đến tương lai cho nước, cho dân.

Lý tưởng độc lập dân tộc, tự do và chủ nghĩa xã hội đã trở thành niềm tin, lẽ sống của nhiều thế hệ kế tục nhau. Do vậy, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở chúng ta phải giáo dục cho thanh niên nhận thức đúng và hiểu sâu sắc rằng: vì lý tưởng cao đẹp ấy, mà biết bao chiến sĩ cộng sản, biết bao người con yêu quý của giai cấp công nhân và của dân tộc đã hy sinh, biết bao lớp tuổi thanh niên đã lên đường chiến đấu. Con đường đi đến lý tưởng cao đẹp là con đường phải đổ nhiều mồ hôi, xương máu, nhưng cũng đầy vinh quang và sự tích anh hùng. Có giác ngộ lý tưởng cách mạng, thanh niên mới đảm đương được sứ mệnh đưa lá cờ bách chiến, bách thắng của Đảng và của dân tộc đến thắng lợi cuối cùng.

- Giáo dục thanh niên thấm nhuần sâu sắc lý tưởng giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội tốt đẹp, công bằng và hạnh phúc.

Dưới chế độ thực dân, đế quốc, nhân dân ta sống trong cảnh tăm tối, cực khổ. Độc lập, tự do, hạnh phúc và các quyền dân tộc sơ đẳng, các quyền con người tối thiểu nhất cũng bị chế độ thực dân tước đoạt. Muốn sống, nhân dân ta phải làm cách mạng, kẻ thù không bao giờ để cho dân tộc ta được sống yên vui trong hòa bình. Là lãnh tụ cách mạng, là chiến sĩ cộng sản, Hồ Chí Minh luôn nêu cao lý tưởng và quyết tâm chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Đó là điều khác cơ bản với lý tưởng trừu tượng, phi hiện thực của các nhà không tưởng, của giai cấp phong kiến và tư sản. Các nhà tư tưởng trước đây trong các xã hội có giai cấp cũng xuất phát từ động cơ trong sáng là muốn đem lại cho con người một cuộc sống tự do, hạnh phúc, xây dựng xã hội mọi người sống bình đẳng, no ấm, yên vui..., nhưng lại đứng trên quan điểm duy tâm lịch sử, thổi phồng và cường điệu vai trò của tư tưởng, thuyết con người trừu tượng, siêu giai cấp. Do vậy, ước muốn của họ dừng lại ở lòng thành thật thương yêu nhân dân, ở “chính nghĩa vĩnh hằng”, “lý trí muôn thuở”, ở những ước mơ tốt đẹp mà không bao giờ trở thành hiện thực.



Trong kinh Phật, kinh thánh của các tôn giáo thường chứa đựng nhiều nội dung về cuộc đời, số phận và lòng mong ước của con người về cuộc sống hạnh phúc, nhưng lại khuyên con người hãy chịu đựng, hãy nhẫn nhục ở trần gian và mong siêu thoát ở nơi thiên đường hư ảo. Vì thế, thứ từ bi, bác ái của các tôn giáo thường bị biến thành công cụ trong tay các giai cấp bóc lột dùng để đánh lạc hướng hay ru ngủ quần chúng lao động.

Với các nhà không tưởng, lý tưởng phấn đấu của họ là mang lại cuộc sống tự do, bình đẳng và ấm no, hạnh phúc cho mọi người lao động. Song, điều kiện thực tiễn và con đường họ thực hiện mang tính “chủ quan”, “ảo tưởng”. Còn giai cấp tư sản có nói đến đấu tranh chống chế độ phong kiến, đòi giải phóng cá nhân con người, nhưng thực chất là bênh vực giai cấp tư sản, đề cao chủ nghĩa cá nhân tư sản, đàn áp, bóc lột nhân dân lao động.

Lý tưởng của Hồ Chí Minh hướng tới mang tư tưởng nhân văn, cách mạng của giai cấp công nhân và những người lao động, lấy hạnh phúc của con người làm nguyên tắc cao nhất. Nhưng hạnh phúc của con người là gì nếu không phải là thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, đem lại cho mọi người sự làm chủ toàn diện, cùng nhau lao động xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, yên vui trong tình thương và lẽ phải; mọi người đều được phát triển đầy đủ nhân cách, sở trường, năng khiếu trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và xã hội. Cho nên, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân, đế quốc, xây dựng một xã hội tốt đẹp, công bằng, hạnh phúc là lý tưởng mang tính nhân văn và cách mạng sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Sống trong một đất nước nghèo khổ và bị thực dân đô hộ, áp bức, Người luôn luôn mong muốn và theo đuổi mục đích: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, dân trí mở mang. Tháng 1-1946, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời vừa được 5 tháng, với biết bao khó khăn thử thách ập đến, nhưng khi trả lời các nhà báo, Hồ Chí Minh - vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam đã nói lên nguyện vọng cao nhất của mình: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” (1).


Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, khi nói chuyện với nam nữ thanh niên học sinh các trường trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn An và Trưng Vương, ngày 18-12-1954, Hồ Chí Minh đã đặt câu hỏi: “Học để phục vụ ai?”. Rồi người trả lời: Học “để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh” (2). Đây chính là lý tưởng phấn đấu của thanh niên trong điều kiện mới.

Để giác ngộ sâu sắc về lý tưởng cách mạng, trước hết cần trang bị cho thanh niên kiến thức về thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, về nhân sinh quan cách mạng, những hiểu biết đúng đắn về chủ nghĩa xã hội. Khi đã có cái nhìn đúng đắn về tự nhiên, xã hội và con người, xác định ý nghĩa cuộc sống, hiểu rõ được mục tiêu tiến tới thì niềm tin của thanh niên sẽ không bị mù quáng, mong muốn không phải là chủ quan và ước mơ không còn là ảo tưởng.

Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên, Hồ Chí Minh lưu ý chúng ta cần phải tránh cách làm cho thanh niên hiểu lý tưởng một cách đơn giản không chỉ ở mục đích cao đẹp cuối cùng phải tiến tới, mà còn cả mục tiêu hiện thực trước mắt cần thực hiện. Nếu chỉ nhìn thấy mục tiêu trước mắt mà không thấy được mục đích cuối cùng thì sẽ trở thành thiển cận, chỉ để thỏa mãn những gì đã đạt được, dễ dừng lại nửa chừng. Nhưng nếu chỉ thấy có mục đích cuối cùng, mà không biết giành thắng lợi từng bước cho những mục tiêu trước mắt, thì mục đích cuối cùng chắc chắn không bao giờ có thể đạt tới. Rõ ràng chúng ta không thể tiến ngay đến đỉnh cao của chủ nghĩa xã hội với tất cả sự hoàn thiện của một xã hội tốt đẹp, mà phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều chặng đường. Nếu những thế hệ đi trước đã chiến đấu hy sinh để giành lại nền độc lập, tự do cho dân tộc, thì thanh niên ngày nay có nhiệm vụ giữ vững nền độc lập, tự do ấy và đưa chủ nghĩa xã hội đến toàn thắng. Vì vậy, việc học tập để thấm nhuần đường lối, quan điểm của Đảng và những chủ trương, chính sách của Nhà nước là một nội dung vô cùng quan trọng để giác ngộ lý tưởng.

Nhưng giác ngộ về lý tưởng không phải chỉ dừng lại ở việc nhận thức về lý tưởng, điều quan trọng hơn là ở chỗ có tinh thần và hành động kiên quyết để thực hiện lý tưởng ấy. Chỉ có đi vào hành động cách mạng, thanh niên mới thể hiện được sự giác ngộ về lý tưởng của mình, và cũng thông qua hành động cách mạng, những cuộc đấu tranh của xã hội, mà bồi dưỡng nâng cao thêm trình độ giác ngộ về lý tưởng. Người chỉ rõ: “Trong xã hội cũ, có nhiều nọc độc nó làm hại thanh niên. Nhất là văn hóa độc ác của Mỹ, nó dùng mọi cách như sách báo, phim ảnh, v.v... Vì vậy, sự giáo dục thanh niên phải liên hệ vào dư luận của xã hội, lực lượng của Chính phủ để ngăn ngừa những cái gì có thể ảnh hưởng xấu đến thanh niên, để nâng cao tính cảnh giác của thanh niên” (3).

b. Giáo dục đạo đức cách mạng

Đạo đức là một trong những quan hệ chủ yếu của đời sống xã hội, nó ra đời và tồn tại một cách khách quan trong cuộc sống, nhằm điều chỉnh ý thức và hành vi của con người. Xét về phương diện xã hội cũng như phương diện hành vi của mỗi cá nhân, đạo đức là một hệ thống các chuẩn mực xã hội quy định, điều chỉnh sự giao tiếp và hành vi xử sự của con người trong quan hệ xã hội, nhằm bảo đảm sự thống nhất lợi ích của cá nhân, tập thể và cộng đồng.

Tuy nhiên, do sự tồn tại dai dẳng của các quan hệ đạo đức, các tư tưởng phản động, của xã hội cũ, nhiều thanh niên tuy sinh trưởng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn không tránh khỏi những tàn dư của đạo đức chế độ xã hội cũ nên không ít thanh niên trốn tránh những nhiệm vụ khó khăn, chỉ biết chăm lo cho lợi ích của riêng mình mà không quan tâm đến lợi ích của tập thể, của xã hội. Vì vậy, giáo dục thanh niên nhận thức đúng nhiệm vụ, trách nhiệm của mình trước dân tộc và tránh được những tác động xấu của tàn dư đạo đức cũ là một công việc khó khăn, lâu dài. Vì vậy, xây dựng một nền đạo đức mới đòi hỏi công tác giáo dục và tổ chức rất tích cực, rất kiên trì trong nhiều năm.

Hiểu rõ tất cả tính chất phức tạp, tinh vi và tế nhị của các quan hệ đạo đức ở nước ta, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, nhằm giúp họ trở thành những người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người chủ xứng đáng của đất nước và là người cách mạng chân chính.

Trong mối quan hệ “đức - tài”, Hồ Chí Minh coi đạo đức là cái gốc của người cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa quyết định của việc xây dựng con người mới. Muốn làm người, trước hết phải biết làm việc để phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, không có tri thức, không có văn hóa thì không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội được. Muốn làm việc đồng thời phải biết làm người tốt, do đó đức là gốc, nếu không có đức thì vô dụng và có hại. Đạo đức phải hình thành qua học tập, lao động sản xuất, đấu tranh cách mạng, trong sự giúp đỡ học hỏi của nhân dân và đồng đội. Đó là thứ đạo đức trong hành động, chứ không hiểu tách rời giữa đức với tài một cách siêu hình. Khi nói về giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tôi xem chương trình giáo dục cho đến hết lớp 10, phần đức dục rất thiếu sót, chỉ có 10 dòng” (1). Tại Hội nghị tổng kết phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt” của ngành giáo dục phổ thông và sư phạm, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Nội dung giáo dục cần chú trọng hơn nữa về đức dục. Tức là việc giáo dục đạo đức phải dành ưu tiên nhiều về nội dung, chương trình, thời gian, kết hợp giáo dục đạo đức với các khoa học khác, để hoàn thiện nhân cách người thanh niên xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Người yêu cầu thanh niên phải thấm nhuần tinh thần làm chủ nước nhà và phải học tập trau dồi đạo đức cách mạng, bởi vì: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” (2).

Chính nhờ có đạo đức cách mạng mà mỗi thanh niên có thể tự phấn đấu hoàn thiện mình, hình thành năng lực để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Vì vậy, đạo đức cách mạng là nền tảng vững chắc để thanh niên hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình. Trước lúc đi xa Người căn dặn: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa Xuất phát từ tư tưởng coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, Hồ Chí Minh đã có rất nhiều bài nói, bài viết đề cập đến vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng. Đặc biệt trong 5 điểm Bác dạy thanh niên và 5 điều Bác dạy thiếu nhi, đều toát lên một sự quan tâm đặc biệt sâu sắc về giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên. Người đã nêu lên những nội dung cụ thể về giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho thanh niên như sau:- Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và hiếu với nhân dân.

Khi nói tới giáo dục đạo đức cách mạng, vấn đề quan trọng hàng đầu được Hồ Chí Minh quan tâm là làm cho thanh niên nhận thức được rằng: đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và hiếu với nhân dân. Khái niệm trung, hiếu mà Hồ Chí Minh nêu để thanh niên tu dưỡng, rèn luyện bao hàm những nội dung rất mới mẻ, trên cơ sở phát triển những tinh hoa của dân tộc và nhân loại. Hồ Chí Minh nói: Tuy Khổng Tử là phong kiến và trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng, song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học. Trung, hiếu là khái niệm quan trọng mà Nho giáo đưa ra. Nhưng trung, hiếu của Nho giáo chỉ bó hẹp trong phạm vi hết lòng thờ vua, thờ cha mẹ trong bất kỳ điều kiện nào. Hồ Chí Minh cũng sử dụng khái niệm trung, hiếu, nhưng được nâng cao, phát triển mang tính giai cấp sâu sắc để giáo dục thanh niên. Đó là lòng trung với Tổ quốc, với Đảng và hiếu với nhân dân.Muốn có lòng trung với nước phải giáo dục cho thanh niên tinh thần yêu nước nồng nàn, sâu sắc. Về nội dung này, Hồ Chí Minh nói rất rõ: yêu Tổ quốc là cái gì trái với quyền lợi của Tổ quốc, chúng ta kiên quyết chống lại. Tư tưởng quán xuyến của Người là Tổ quốc luôn gắn liền với nhân dân, yêu nước hay trung với nước là làm sao cho “dân giàu, nước mạnh”, một khái niệm hết sức thiết tha, gần gũi mà Hồ Chí Minh đã đưa ra rất sớm từ sau khi miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng.

Trung với Đảng, theo Người là phải giáo dục cho thanh niên có được những đức tính trung thực, ngay thẳng, không tà dâm, không làm việc bậy. Ngoài lợi ích của Đảng không có lợi ích riêng. Lúc được giao việc thì bất kỳ to nhỏ đều ra sức làm cẩn thận, có hiệu quả, và phải biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng. Đó là những nội dung hết sức sinh động, cụ thể vừa là thước đo, vừa là chỉ dẫn không chỉ riêng đối với thanh niên, mà còn cho tất cả những ai tự nguyện chiến đấu dưới ngọn cờ của Tổ quốc, của Đảng.

Mặt khác, phải giáo dục cho thanh niên có tấm lòng hiếu thảo. Nho giáo chỉ giới hạn chữ hiếu đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở thanh niên phải kính trọng và thương yêu cha mẹ, song Người đã mở rộng phạm vi chữ hiếu là hiếu với nhân dân, kết hợp nhuần nhuyễn gia đình và xã hội, cha mẹ, anh chị em với đồng bào, đồng loại.

Hiếu với dân như lời dạy của Người là, phải giáo dục thanh niên biết yêu mến nhân dân, quý trọng nhân dân, học tập, làm việc, chiến đấu vì nhân dân, làm cho ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Phải chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, tích cực giúp đỡ nhân dân vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. Đồng thời, dám đấu tranh chống lại mọi biểu hiện sách nhiễu nhân dân, gây phiền hà cho nhân dân, và luôn dựa vào nhân dân để phát động phong trào thi đua lao động sản xuất, làm cho nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào chế độ xã hội chủ nghĩa.

- Đạo đức cách mạng là ra sức thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và khiêm tốn, giản dị.

Giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, Hồ Chí Minh rất chú trọng đến việc giáo dục những phẩm chất cao quý như: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, những tác phong đẹp đẽ như khiêm tốn, giản dị. Đó là tinh thần lao động tích cực, siêng năng, làm hết sức mình, gan dạ, táo bạo và sáng tạo; là đức tính “trung thành, thật thà, chính trực” trong đời công và đời tư. Phải kiên quyết chống thói lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng. Tại buổi lễ khai mạc Trường Đại học Nhân dân Việt Nam, ngày 19-1-1955, Người nói: “Thanh niên cần phải chống tâm lý tự tư tự lợi, chỉ lo lợi ích riêng và sinh hoạt riêng của mình. Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Tránh thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt ỷ mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang” (4), vì đó là những thói xấu kìm hãm chí tiến thủ của thanh niên. Người yêu cầu thanh niên phải luôn trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn và giản dị. Chống kiêu căng, tự mãn. Chống lãng phí xa hoa. Thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh để giúp nhau cùng tiến bộ.

Thanh niên bao giờ cũng có nhiều ham muốn. Nhưng nếu những ham muốn chỉ hướng vào những dục vọng tầm thường thì sẽ làm cho thanh niên sống không có mục đích đúng đắn, hay nói đúng hơn đó là ham muốn thấp hèn. Phải giáo dục thanh niên có được ý thức biết tự kiềm chế, không để cho những ham muốn thấp hèn trở thành thói quen trong cuộc sống, trong sinh hoạt hàng ngày.

Bởi vì, khi đã thành thói quen rồi thì rất khó sửa, có khi còn làm cho thanh niên đi tới thoái hóa, biến chất, hư hỏng. Nếu không giáo dục thanh niên đức tính giản dị, tiết kiệm, thì dễ dẫn đến tiêu pha phung phí, đẩy thanh niên vào con đường làm ăn bất chính, vi phạm pháp luật. Sự kiềm chế ấy trước hết là đối với những ham muốn, những tham vọng không chính đáng của cá nhân.

- Đạo đức cách mạng là tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, trí tuệ của tập thể, của nhân dân và kiên quyết đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.Xuất phát từ những truyền thống quý báu của dân tộc ta, những phẩm chất cao quý của nhân dân ta và vai trò lãnh đạo của Đảng, do đó Người nhắc nhở mọi người phải giáo dục thanh niên có nhận thức đúng và tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng và trí tuệ của tập thể, của nhân dân. Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng, sự chăm lo của tập thể và của nhân dân thì thanh niên không thể trưởng thành được. Một mặt, Người nhấn mạnh phẩm chất chủ yếu của đạo đức cách mạng đó là chủ nghĩa tập thể và đối lập với nó là chủ nghĩa cá nhân. Mặt khác, Người thường nhấn mạnh tinh thần tự lực, tự cường và ý thức tự rèn luyện của cá nhân, vai trò của cá nhân trong xã hội, song mối liên hệ giữa cá nhân và xã hội trước hết phải được xem xét theo nguyên tắc cá nhân gắn chặt với xã hội, với tập thể. Cá nhân phải có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào xã hội. Nếu không có cách nhìn nhận đó, thậm chí ngược lại không tin tưởng đi đến khinh miệt và xa lánh nhân dân, xa lánh tập thể thì thanh niên sẽ trở về với chủ nghĩa cá nhân tư bản.

Từ đó, phải làm cho thanh niên tìm ra được sức mạnh trong tập thể nhỏ bé của mình cũng như trong nhân dân, có sự đồng cảm và chia sẻ những công việc nặng nhọc với nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng” (5). Cần giáo dục cho thanh niên có được sự đồng cảm đó, bắt đầu từ tập thể lớp học, từ nhóm bạn bè cho đến những tập thể lao động.

Học và làm theo quan điểm của Bác về nhân dân



Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì ấm no hạnh phúc của nhân dân, với cách sống, làm việc theo chuẩn mực: “Cần - Kiệm - Liêm - Chính - Chí công vô tư” do Người xác định và gương mẫu làm trước để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân học tập, noi theo. Người chỉ rõ: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không có đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối. Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” (1).

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta dù bận trăm công nghìn việc lo cho Đảng, cho Tổ quốc, nhưng Người vẫn thường xuyên lo nghĩ về nhân dân, Bác không quên tự dặn mình rằng: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh” (2). Điều đó nói lên sự quan tâm có tính mẫu mực, thấu nghĩa đạt tình của một danh nhân văn hóa tầm cỡ thế giới, của một lãnh tụ tối cao luôn lấy sự ấm no, tự do và hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu không bao giờ mệt mỏi.

Trong bài báo có tựa đề “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết đăng Báo Sự Thật (cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ) vào ngày 15-10-1949, Người khẳng định:

“...I. NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra.

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân...”.

Theo quan điểm ấy, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách để khoan sức dân, thể hiện đúng đắn quan điểm “lấy dân làm gốc”. Thuở nhà Trần xưa, Tiết chế Quốc công Trần Quốc Tuấn đã từng chỉ rõ: “Nguồn gốc sức mạnh của đất nước chính là biết khoan thứ sức dân, để làm kế sâu, rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước” (3). Đó là một trong những cơ sở lý luận và thực tiễn để Trung ương Đảng đã có những chủ trương đúng đắn, kịp thời hướng về nhân dân, lắng nghe ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thể hiện ngày càng rõ nét hơn về vai trò, hiệu quả lãnh đạo tất thắng của một Đảng cầm quyền, bảo đảm cho bộ máy công quyền các cấp hoạt động đúng theo quyền lực của một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tập trung hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Ngày 5-4-2007, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với 6 Chương bao gồm 28 Điều, cho thấy vấn đề phát huy quyền làm chủ của nhân dân đã được đề cao hơn bao giờ hết, nội hàm dân chủ đã được nâng tầm pháp lý, góp phần bảo đảm cho sự công bằng, minh bạch về hoạt động của các cơ quan công quyền ở cơ sở, cũng chính là bảo đảm cho quyền lợi hợp pháp và chính đáng của nhân dân được thi hành triệt để. Mặt khác, sự ra đời và từng bước đi vào cuộc sống cộng đồng của Pháp lệnh trên, thể hiện sự tôn trọng của Đảng và Nhà nước ta đối với nhân dân theo tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, NXB CTQG, Hà Nội, trang 56

(2) Sách đd, tập 4, trang 56-57

(3) Theo Đại Việt sử ký toàn thư