Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2009

Tư tưởng nhân văn trong bài thơ chúc Tết cuối cùng của Bác Hồ



Tư tưởng nhân văn trong bài thơ chúc Tết cuối cùng của Bác Hồ
Nhân dịp Tết Nguyên đán đầu tiên sau hòa bình, các cháu thiếu nhi thủ đô đến chúc tết Bác Hồ và múa hát quanh Bác tại Phủ Chủ tịch (ngày 9-2-1955).
Sinh thời, mỗi độ Xuân về, Tết đến Bác Hồ thường làm thơ chúc Tết quân và dân cả nước. Mỗi bài thơ chúc Tết của Bác đều là ngọn đuốc soi đường, là lời động viên, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hăng hái tiến lên giành thắng lợi to lớn hơn năm cũ.

Nhưng không chỉ có vậy, bài thơ chúc Tết năm Kỷ Dậu (1969) cuối cùng của Bác trước lúc đi xa còn thấm đậm tư tưởng nhân văn cao cả, lòng nhân ái, chủ nghĩa nhân đạo vô bờ bến của Bác Hồ kính yêu:

Năm qua thắng lợi vẻ vang

Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to

Vì độc lập, vì tự do

Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào

Tiến lên! Chiến sĩ đồng bào

Bắc - Nam sum họp xuân nào vui hơn.

Bài thơ lục bát của Bác chỉ có 6 câu nhưng trong đó chứa đựng ý chí quyết tâm của toàn dân tộc chiến đấu vì mục tiêu "Độc lập, tự do" cho "Bắc - Nam sum họp" thống nhất. Bác khẳng định tổng tấn công mùa xuân 1968 là thắng lợi vẻ vang, to lớn của quân và dân ta. Nhưng Bác tin tưởng chắc chắn rằng "Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to". Lòng tin tưởng, lạc quan của Bác - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc vào thắng lợi đã tiếp thêm sức mạnh cho chiến sĩ, đồng bào từ tiền tuyến đến hậu phương ra sức thi đua chiến đấu lập công. Bác cổ vũ toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta "đánh" mạnh hơn nữa, "đánh" trúng kẻ thù là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Nhưng ở đây Bác chỉ rõ là "Đánh cho Mỹ cút" chứ không phải đánh chết hết. Phải chăng tư tưởng nhân văn của tổ tiên ta trong sự nghiệp chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc, đã thấm vào trái tim, khối óc trở thành đạo đức Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay. Ngày xưa ông cha ta đánh thắng kẻ thù còn cấp lương thảo cho chúng ăn để về nước. Ngày nay Bác Hồ bảo "Đánh cho Mỹ cút về nước" là ta thắng lợi, lời tiên đoán của Bác năm 1973 đã trở thành hiện thực. Đế quốc Mỹ phải cuốn cờ về nước, chấm dứt sự can thiệp xâm lược nước ta.

Còn đối với nguỵ quân, nguỵ quyền là tay sai tiếp tay cho bọn thực dân đế quốc xâm lược Tổ quốc ta Bác vẫn nói quyết tâm là "đánh" nhưng mà đánh cho chế độ nguỵ quân, nguỵ quyền đổ nhào xuống chứ không phải là đánh chết hết vì thực ra những tên lính nguỵ vẫn là người Việt ta. Chúng ta quyết đánh đổ bè lũ đế quốc tay sai để thống nhất Tổ quốc. Nhân dân Bắc - Nam sum họp một nhà, cùng nhau xây dựng đất nước phồn vinh, giàu mạnh. Chủ nghĩa nhân văn cao cả của Bác đã được Đảng ta, nhân dân ta thực hiện trọn vẹn. Đồng bào cả nước không phân biệt dân tộc, tôn giáo và quá khứ đã và đang đoàn kết một lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thân yêu.

Những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh



Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chuyên về đạo đức.

Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên Người viết để huấn luyện những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề đầu tiên Người đề cập là tư cách người cách mệnh. Tác phẩm sau cùng bàn sâu về vấn đề đạo đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (3-2-1969), đăng trên báo Nhân dân là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn dặn Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những phẩm chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu rèn luyện đạo đức với mỗi người cách mạng.

1. Về vị trí, vai trò của đạo đức trong xã hội và trong đời sống của mỗi người

- Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc “tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ: với mình, với người và với việc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” .
- Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” .
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách. Người viết : “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa” .
- Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người đảng viên phải giữ gìn cho đúng, đó là:
+ Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
+ Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu.
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết.
+ Hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.
- Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của V. I. Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
- Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” .

2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Trung với nước, hiếu với dân
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.
- Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu". Nước là của dân, dân là chủ đất nước, trung với nước là trung với dân, vì lợi ích của nhân dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”...
- Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước “vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của dân”.
- Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng. Người dạy, đối với mỗi cán bộ đảng viên, phải “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, và hơn nữa, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
- Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan điểm của Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng, đất nước.
b. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội.
- Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa số nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
- Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
- Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
- Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người.
Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ nghĩa Mác - Lênin để thương yêu nhau hơn. Người viết: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được"
c. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, là mối quan hệ “với tự mình”.
- Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.
+ Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”.
+ Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức...”.
Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác.
+ Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; “không tham địa vị, không tham tiền tài..., không tham tâng bốc mình...”.
+ Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”.
Liêm, chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ.
- Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư, thiên vị "tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán", đem lòng chí công, vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn "chí công, vô tư" phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.
Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người "giữ cán cân công lý", không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật.
- Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công, vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người là “người Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể hiện trong các điểm sau:
- Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột.
- Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn phương vô sản đều là anh em”.
- Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
- Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc...


3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong xã hội và chính Người đã suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình, giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện. Đó là:
a. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
- Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.
- Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với nhân viên... là rất quan trọng. Người yêu cầu, cha mẹ làm gương cho các con, anh chị làm gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu, lãnh đạo làm gương cho cán bộ, nhân viên...
- Đảng viên phải làm gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” .
b. Xây đi đôi với chống
- Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới, đó là "chủ nghĩa cá nhân". Xây đi đôi với chống là muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải chống chủ nghĩa cá nhân.
- Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục, từ gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể hoá sát hợp với các tầng lớp, đối tượng. Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh của mọi người, để mọi người nhận thức được và tự giác thực hiện.
- Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết phải chống chủ nghĩa cá nhân, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
- Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc thi đua “ba xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.
c. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
- Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết: “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
- Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người dạy: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
- Tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mình.

Tấm lòng của Bác Hồ với chiến sĩ



Tấm lòng của Bác Hồ với chiến sĩ
Bác Hồ nói chuyện với các chiến sĩ tại Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ. Ảnh: TL.
Đối với chiến sĩ là những người hy sinh nhiều nhất cho dân tộc, Bác Hồ thường dành cho anh em sự chăm lo, săn sóc ân tình, chu đáo nhất.

Mùa đông, thương anh em chiến sĩ rét mướt ở rừng núi hay bưng biền, Bác đem tấm áo lụa của mình được đồng bào tặng, bán đấu giá để lấy tiền mua áo ấm gửi cho các chiến sĩ.

Bác thường nói: "Chiến sĩ còn đói khổ, tôi ăn ngon sao được!". "Chiến sĩ còn rách rưới, mình mặc thế này cũng là đầy đủ lắm rồi!".

Mùa hè năm ấy (1967), trời Hà Nội rất nóng. Sức khoẻ Bác Hồ đã kém, thần kinh tuổi già cũng suy nhược, dễ bị toát mồ hôi, ướt đầm, có ngày phải thay mấy lần quần áo, có khi hong tại chỗ, rồi lại thay ngay. Bác không cho dùng máy điều hoà nhiệt độ. Bác bảo: mùi nó hôi lắm, Bác không chịu được! (Bác không dùng nên nói vậy thôi, chứ máy đã có nút xả thơm).

Thấy trời oi bức quá, Bác nói với đồng chí Vũ Kỳ:

- Nắng nóng thế này, các chú bộ đội trực phòng không trên nóc hội trường Ba Đình thì chịu sao được? Các chú ấy có đủ nước uống không? Chú thử lên tìm hiểu xem thế nào, về cho Bác biết.

Đồng chí Vũ Kỳ lên, được biết trên đó có một tổ súng máy 14 ly 5 vụ cát sơ sài, nếu địch bắn vào thì chỉ có hy sinh, rất nguy hiểm.

Trời nắng chói, đứng một lúc mà hoa cả mắt. Đồng chí Vũ Kỳ hỏi:

- Các đồng chí có nước ngọt uống không?

- Nước chè thường còn chưa có, lấy đâu ra nước ngọt!

Đồng chí Vũ Kỳ về nói lại với Bác, Bác gọi điện ngay cho đồng chí Văn Tiến Dũng:

- Sao các chú không lo đủ nước uống cho các chiến sĩ trực phòng không? Nghe nói ụ súng trên nóc hội trường Ba Đình rất sơ sài, chú phải lo sửa ngay để đảm bảo an toàn cho chiến sĩ trong chiến đấu!

Sau đó Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ đi lấy sổ tiết kiệm của Bác, xem tiền tiết kiệm của Bác còn bao nhiêu.

Tại sao Bác có tiền tiết kiệm? Lương Bác cao nhất nước, nhưng hàng tháng cũng chỉ đủ tiêu. Mọi chi phí cho sinh hoạt của Bác, từ cái chổi lông gà, đều ghi vào lương cả.

Tiền tiết kiệm của Bác là do các báo trả nhuận bút cho Bác. Bác viết báo nhiều, có năm hàng trăm bài. Các báo gửi đến bao nhiêu, văn phòng đều gửi vào sổ tiết kiệm của Bác. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác cũng đã có tiền tiết kiệm. Đến dịp Tết Nguyên đán, Bác lại đem chia cho cán bộ các cơ quan chung quanh Bác, mua lợn để đón xuân.

Đồng chí Vũ Kỳ xem sổ và báo cáo:

- Thưa Bác, còn lại tất cả hơn 25.000 đồng (lúc đó là một món tiền rất lớn, tương đương với khoảng 60 lạng vàng).

Bác bảo:

- Chú chuyển ngay số tiền đó cho Bộ Tổng tham mưu và nói: đó là quà của Bác tặng để mua nước ngọt cho anh em chiến sĩ trực phòng không uống, không phải chỉ cho những chiến sĩ ở Ba Đình, mà cho tất cả các chiến sĩ đang trực chiến trên mâm pháo ở khắp miền Bắc. Nếu số tiền đó không đủ thì yêu cầu địa phương nào có bộ đội phòng không trực chiến góp sức vào cùng lo!

Về sau, Bộ Tư lệnh phòng không không quân báo cáo lại cho Văn phòng Phủ Chủ tịch biết: số tiền của Bác đủ mua nước uống cho bộ đội phòng không, không quân được một tuần!

Theo: Trần Đức Hiếu
(Ghi lời kể của đồng chí Vũ Kỳ)

Làm cho đất nước càng ngày càng xuân!



Làm cho đất nước càng ngày càng xuân!
Hằng ngày, Hồ Chủ tịch vun xới cây vú sữa của đồng bào miền Nam gửi tặng với tấm lòng thương yên vô hạn miền Nam anh hùng. Ảnh tư liệu
Cách đây vừa đúng 50 năm, đầu năm 1959 nhân dịp Tết Nguyên đán và kỷ niệm Ngày thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động Tết trồng cây. Và Người thường xuyên theo dõi, nhắc nhở, động viên phong trào Tết trồng cây. Từ đó Tết trồng cây đã trở thành một phong tục đẹp ở nước ta, và có lẽ không có người Việt Nam nào lại không thuộc câu thơ của Bác: “Mùa xuân là Tết trồng cây/ Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”.

Nửa thế kỷ theo lời kêu gọi trồng cây của Bác đã tạo ra những thế hệ cây xanh phong phú. Hàng trăm triệu cây xanh đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế, góp phần điều hoà khí hậu và tô đẹp cảnh quan đất nước. Vận động nhân dân trồng cây và năm nào Bác Hồ cũng tự mình đi trồng cây. Nhìn những tấm ảnh chụp Bác đi trồng cây ở khắp nơi, chúng ta đều thấy Bác cười vui, ánh mắt sáng trìu mến bên màu xanh của cây lá, ta như nhìn thấy tình yêu cây của Bác hoà trong niềm vui giản dị và gần gũi với toàn dân. Rất nhiều những loài cây Bác trồng, nay đã đi vào lịch sử. Từ cây vú sữa của đồng bào miền Nam biếu Bác, nay toả bóng trong khu nhà Bác đến cây đa Bác trồng ở vườn hoa Thống Nhất, ở đường Thanh niên Hà Nội, cây đa bên thành Cổ Loa… đến cây đa cuối cùng Bác trồng ở xã Vật Lại, Hà Tây trong ngày mồng 1 Tết Kỷ Dậu 1969.

Màu xanh của những cây đa ấy như một lời nhắc nhở chúng ta, hãy ra sức trồng cây, trồng rừng vì màu xanh đất nước! Bác Hồ không chỉ trồng cây ở trong nước, những dịp đi thăm nước ngoài Bác cũng rất thích trồng cây. Bác đã trồng cây Đại ở Ấn Độ, trồng cây Sồi ở Nga… và Bác gọi đó là "Những cây Hữu Nghị".

Nhưng không phải chỉ trồng cây vào mùa xuân, Bác Hồ nói: "Tết trồng cây là ngày mở đầu cho việc trồng cây suốt cả năm". Lúc sinh thời, mùa xuân năm nào Bác cũng viết thư cho nhân dân, động viên, khuyến khích nhân dân trồng thật nhiều cây cho Tổ quốc xanh tươi. Người căn dặn: "Chúng ta thực hiện Tết trồng cây, cùng với kế hoạch trồng cây gây rừng của Nhà nước, một cách liên tục, bền bỉ và vững chắc thì kinh tế và văn hóa của nước ta sẽ phát triển, đồng thời phong cảnh của nước ta cũng thật sự là non sông gấm vóc, tươi đẹp vô cùng".

Việt Nam chúng ta là một quốc gia được hưởng sự ưu ái của thiên nhiên. Nước ta có ba phần tư diện tích là đồi núi và một bờ biển dài 3260 km. Việt Nam cũng là một nước có tài nguyên sinh vật thuộc loại đa dạng và phong phú, với trên 7000 loài thực vật bậc cao, hàng nghìn loài thú, loài chim, loài bò sát… Gần đây, nhiều loài thú quý hiếm đã bị xóa sổ trên thế giới như Sao la, Tê giác một sừng… lại đã tìm thấy ở rừng Việt Nam.

Thiên nhiên là người mẹ, là cái nôi xanh của sự sống, và con người khôn ngoan là phải biết giữ gìn thiên nhiên, biết sống hoà hợp với thiên nhiên. Song, chiến tranh và nạn phá rừng trong nhiều năm qua đã hủy hoại một cách khốc liệt tài nguyên rừng. Hàng triệu lít thuốc độc hóa học và chất độc màu da cam do Mỹ rải xuống những khu rừng, những làng mạc, đã huỷ hoại một diện tích đất đai rộng lớn của nước ta. Rồi nạn lâm tặc khai thác gỗ bừa bãi vì mối lợi trước mắt, đã làm cho những cánh rừng đầu nguồn bị tàn phá. Tập quán du canh du cư và di dân tự do dẫn đến việc đốt rừng làm nương rẫy, gây xói mòn và rửa trôi những lớp đất màu mỡ. Hằng năm, hàng nghìn héc-ta rừng bị tàn phá, nhất là những rừng cây đầu nguồn. Hạn hán, lũ lụt, lũ quét, lở đất… cùng các nguy cơ tiềm ẩn của thiên tai những năm qua đều có chung một nguyên nhân do nạn phá rừng nghiêm trọng của chính chúng ta.

Tình yêu thiên nhiên là một trong những tình cảm lớn của con người và lòng tự hào về lịch sử và văn hóa Việt Nam, trong đó có sự tự hào về thiên nhiên, đất nước. Yêu nước là phải yêu chính những cánh rừng của Tổ quốc.

Ngày nay trên thế giới đã có hàng trăm nước có tục lệ trồng cây. Việc giữ gìn, tôn tạo hệ sinh thái thực vật, cải thiện môi trường sống, làm giảm đi những tác hại của sự thay đổi khí hậu là vấn đề hệ trọng không chỉ mang tính quốc gia, mà còn là vấn đề của toàn cầu. Xã hội hiện đại là xã hội điện tử, tin học và công nghệ… Nhưng xã hội hiện đại cũng lại thải ra một lượng chất thải khổng lồ, dẫn đến ô nhiễm môi trường, nguồn nước và thức ăn, đe doạ đến đời sống và sức khoẻ con người. Cây xanh ngoài ý nghĩa kinh tế, điều hoà khí hậu, bảo vệ môi trường sống… còn là vẻ đẹp văn hóa của một đất nước, là bài thơ thiên nhiên ban tặng cho con người!

Trong một bức thư viết nhân Tết trồng cây, Bác Hồ viết: "Có nơi nhầm cho rằng Tết trồng cây chỉ làm một đợt, chứ không hiểu rằng Tết trồng cây là một kế hoạch kinh tế lâu dài và liên tục. Do đó đợt một thì làm ào ạt, về sau có vẻ nguội dần..." Và Bác nhấn mạnh: "Tết trồng cây cũng như mọi công việc khác, các cấp ủy Đảng phải lãnh đạo cụ thể và chặt chẽ thì mới thành công".

Thực hiện lời dạy của Bác, những năm qua cùng với phong trào trồng cây, trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chúng ta đã giao khoán cho dân để mọi khu rừng đều có chủ. Bên cạnh những khu rừng đại ngàn là những cánh rừng mới, những rừng cây chắn sóng ven biển, những miệt vườn cây ăn quả và những đường cây bóng mát. Nhưng kế hoạch trồng rừng, trồng cây cũng chưa được lãnh đạo chặt chẽ. Trong khi đó nạn phá rừng, khai thác gỗ bừa bãi vẫn gây ra những tác hại lớn, đòi hỏi mỗi người, mỗi địa phương, nhất là các cấp lãnh đạo cần phải ngăn chặn kịp thời.

Nói đến rừng, đến cây, có lẽ cũng nên nói đến những bóng cây xanh trong các thành phố, các đô thị, các khu công nghiệp, lá phổi của sự sống. Song hình như bên cạnh những khu nhà cao đẹp, những khu công nghiệp đang nối nhau mọc lên trên khắp đất nước, vẫn còn thiếu những bóng cây xanh. Cây xanh không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên, nó còn là sự hòa hợp của không gian kiến trúc và yêu cầu của sự sống.

Bác Hồ và những chuyện chưa được kể phía sau khuôn hình



  Bác Hồ và những chuyện chưa được kể phía sau khuôn hình
Bác Hồ luôn quan tâm đến phóng viên báo chí từ những việc rất nhỏ, rất cụ thể.
Đây là những câu chuyện cảm động về Bác Hồ với những người làm báo hình của đạo diễn, quay phim, NSƯT Phạm Việt Tùng - người đã từng theo Bác những ngày đầu bước vào nghề báo hình và làm nhiều phim tài liệu về Bác Hồ. Chúng tôi xin đăng lại nhân ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam.

Những câu chuyện ông kể, có chuyện do ông trực tiếp chứng kiến và có những chuyện các đồng nghiệp của ông, nhà quay phim Nguyễn Thế Đoàn, Hoàng Thái, Phan Nghiêm, Phạm Văn Khoa, Mai Lộc, Phan Trọng Quỳ, An Sơn, Tô Cương, Ngọc Quỳnh, Khánh Dư, Nguyễn Đăng Bẩy... kể lại trong chặng đường tái dựng chân dung Bác Hồ của ông.

Đó là những câu chuyện không thể nào quên đối với những người có may mắn gánh trên mình trọng trách “đưa hình ảnh Bác đến với đồng bào khắp trong Nam, ngoài Bắc, trong đó có những người “giúp nhân dân Miền Nam biết gương mặt đó để tin và đi theo chủ nghĩa đó” như lời kể của nghệ sĩ Việt Tùng.

Ở độ tuổi 20, còn rất trẻ, Phạm Việt Tùng đã "có may mắn được đi theo Bác Hồ" từ những năm 1960. Ông tâm sự: "Được tiếp xúc và gần gũi Bác, chúng tôi bị ảnh hưởng của Bác trong công việc báo hình. Thế hệ những người "cũ kỹ, có may mắn gần Bác như chúng tôi luôn suy nghĩ làm sao cho đúng, soi lại tư tưởng của Bác trước mỗi hành động".

Những năm đầu trong nghề làm báo hình của ông gắn với nhiều kỷ niệm về Bác. Sau này, ông đã làm rất nhiều những bộ phim tư liệu về Bác Hồ. Những kỷ niệm khi quay phim về Bác tái hiện sống động trong ký ức NSƯT Việt Tùng.

Bác luôn xuất hiện ở nơi không ngờ nhất

Được báo tin Bác chuẩn bị đến thăm một địa điểm nào đó, đơn vị được Bác tới thăm bao giờ cũng muốn chuẩn bị thật chu đáo để đón Bác. Cánh quay phim thường đến sớm, chuẩn bị máy tại nơi dự kiến sẽ đón Bác.

“Nhưng Bác luôn xuất hiện ở những nơi không ngờ nhất. Nhiều khi mình chuẩn bị đón tiếp tại một hướng nhưng ông Cụ lại đến từ một hướng khác”. “Không ai đoán được ông Cụ muốn kiểm tra mình cái gì”.

Năm đó, Bác Hồ trở lại thăm Pắc Bó, nơi Bác vẫn xem là quê hương thứ hai của mình. Nhân dân Pắc Bó đã làm một con đường lớn để đón Bác vào thăm mộ Kim Đồng. Nhưng khi đến thăm, Bác không đi con đường mới được xây dựng ấy. Bác lần theo đường mòn cũ, đi lại những lối đi đã từng rất quen thuộc với Bác trong thời kỳ kháng chiến, như muốn ôn lại cả chặng đường đã qua.

Mỗi khi đón Bác, các cơ quan, đơn vị đều chuẩn bị kỹ phòng họp để Bác vào thăm. Nhưng bao giờ cũng vậy, Bác thường qua thăm chỗ nhà ăn, nhà vệ sinh trước rồi mới tới gặp nhân dân. Bác quan tâm sâu sắc, cụ thể đến đời sống của họ, từng cái ăn, cái ở. “Mỗi chuyến thăm của Bác không phải Bác đến chỉ để phát biểu vài ba câu…”. Có lần, đến thăm nhà máy cơ khí số 1, trong khi mọi người đang loay hoay chuẩn bị phòng đón Bác, Bác đi vòng qua sân, nhìn thấy một cái bục nhỏ. Bác đứng lên bục và nói chuyện với công nhân ngay tại đó.

"Các chú chuẩn bị máy, Bác bảo cho mà làm"

Là vị Chủ tịch nước, nhưng Bác quan tâm đến những việc rất nhỏ của cánh quay phim, quan tâm sát sao và rất cụ thể. Ông Việt Tùng tâm sự: "Cụ luôn biết mình đang thuận lợi, khó khăn gì để giúp đỡ mình, thân tình và nhân ái”.

Ông vẫn nhớ câu chuyện của người đồng nghiệp trong chuyến quay phim dịp Đại hội Đảng lần thứ II. Bác đã chủ động hỏi các nhà quay phim: "Các chú có mang nhiều phim không?" Chú quay phim thành thật thưa với Bác: "Thưa Bác, chúng cháu chỉ có 1 cuộn phim thôi ạ". Bác liền bảo: "Thế các chú chuẩn bị máy, Bác bảo cho mà làm… Chú quay một cái toàn cảnh rồi lia sang lá cờ. Sau đó mới tới các hoạt động của hội nghị". Ông Cụ am hiểu về nghề làm phim như vậy đấy, nhà quay phim Việt Tùng nói.

Bấy giờ, điện ảnh Việt Nam còn kém. Chúng ta quay phim gửi sang Trung Quốc, để Trung Quốc “làm giúp”. Đó là bộ phim "Việt Nam kháng chiến". Ta muốn quay cảnh Bác họp hội đồng Chính phủ nhưng vì hồi ấy, chưa được trang bị các thiết bị hiện đại như bây giờ, ánh sáng trong ngôi nhà mái lá không đảm bảo cho cảnh quay. Trong lúc cánh quay phim đang "bí", loay hoay chưa biết làm thế nào cho đủ sáng, Bác chỉ lên mái nhà, bảo với quay phim Khánh Dư lúc đó đang là phụ quay: "Chú trèo lên dỡ mấy tàu lá cọ xuống cho ánh sáng lọt vào là quay được".

Nhà quay phim Tô Cương: "Ông cụ đã cứu mình"

Ông bồi hổi kể, Bác Hồ có thói quen đi rất nhanh. Bác bước từng sải dài, chỉ nhắm nhanh đến đích, để thực hiện công việc của mình. Anh em quay phim nhiều khi không bắt kịp hình ảnh của Bác, nhưng ngại, không biết làm như thế nào. Một hôm, trong lúc nói chuyện, Bác quay sang hỏi nhà quay phim An Sơn: “Hôm nay các chú có làm được việc không?”. Lúc này, ông mới mạnh dạn bộc bạch với Bác: “Thưa Bác, Bác đi nhanh quá ạ. Phim nhựa mang theo người nặng lắm, mà Bác đi nhanh như thế, cháu không quay được ạ”. Từ đó, khi máy quay hướng vào Bác, Bác chủ động đi chậm lại, tạo thuận lợi để thu được những thước phim về Bác.

Bác Hồ luôn quan tâm đến những việc rất bé như vậy. Câu chuyện của nhà quay phim Tô Cương được nghệ sĩ Việt Tùng kể lại trong niềm xúc động. Đầu năm 1960, gia đình Luật sư Lô-Giơ-Bai, ân nhân của Bác trong vụ án Hồng Kông sang thăm Việt Nam. Bác Hồ đưa các vị khách quý đến thăm Nhà máy Công cụ số 1.

Trong lúc đang quay phim, đột nhiên máy quay bị hỏng. Bác nghe xoạch một tiếng, biết là máy quay không chạy được. Bác chủ động dừng lại, quay ra nói chuyện với các vị khách, tạo thời gian cho anh em sửa máy. “Cụ lo cho mình như thế đấy. Nếu Cụ đi thẳng, mình không chữa được máy, không quay được hình ảnh Cụ, không hoàn thành được nhiệm vụ, chắc chắn sẽ bị kỷ luật…”. Ông Việt Tùng lúc bấy giờ làm ánh sáng phụ cho ông Tô Cương quay phim về Bác kể lại. Sau lần đó, nhà quay phim Tô Cương cứ xuýt xoa: “May quá, Ông Cụ đã cứu mình”.

Đằng sau khuôn hình, tại hậu trường những cảnh quanh chân thực về Bác, còn biết bao những câu chuyện giản dị và cảm động. Những câu chuyện đó đã theo họ trên suốt chặng đường làm báo, với tâm nguyện “làm gì cho xứng đáng”, bởi như Bác nhiều lần nhắc nhở: làm báo chính là làm cách mạng… là để phục vụ quảng đại quần chúng, không chỉ phục vụ một số ít cá nhân...

Bác Hồ với đội ngũ trí thức



Nhằm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 về đội ngũ trí thức trong thời kỳ mới, Ban biên tập xin giới thiệu những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức của Bác Hồ đối với đội ngũ trí thức trong tài liệu do Ban Tuyên giáo Trung ương phát hành phục vụ cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"

1. ... Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà, mà anh em văn hóa và trí thức phải làm cũng như là những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc.

(Gửi anh em văn hóa và trí thức Nam bộ, ngày 25-5-1947, sđd, t.5, tr. 131)

2. ... Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế. Chứng thực là trong cuộc kháng chiến cứu quốc này, những người trí thức Việt Nam đã chung một phần quan trọng. Một số thì trực tiếp tham gia vào công việc kháng chiến, hy sinh cực khổ, chen vai thích cánh với bộ đội và nhân dân. Một số thì hăng hái hoạt động giúp đỡ ở ngoài.

Trả lời một nhà báo nước ngoài, ngày 22-6-1947, sđd, t.5, tr. 156.

3. ... Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều.
Nhưng có đôi người trí thức vì thế mà kiêu ngạo, lên mặt. Chứng kiêu ngạo lên mặt rất có hại cho họ. Nó ngăn trở họ tiến bộ.
... Một người học xong đại học có thể gọi là có trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế.
Vì vậy, những người trí thức đó cần phải biết rõ cái khuyết điểm của mình. Phải khiêm tốn. Chớ kiêu ngạo. Phải ra sức làm các việc thực tế.
Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận.
Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên.
Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để lòe thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích.
Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành.
... Có nhiều đồng chí có bệnh tự tôn, tự đại, khinh rẻ người ta, không muốn biết, muốn học những ưu điểm của người khác. Biết được vài câu lý luận đã cho mình là giỏi, không xem ai ra gì, tưởng mình là hơn hết. Đó là bệnh hẹp hòi hạng nặng.

Sửa đổi lối làm việc, tháng 10-1947, sđd, t.5, tr. 235, 238.

..Các bạn là bậc trí thức. Các bạn có cái trách nhiệm nặng nề và vẻ vang là làm gương cho dân trong mọi việc. Dân ta đã đấu tranh một cách rất dũng cảm. Lẽ tất nhiên giới trí thức phải hy sinh đấu tranh, dũng cảm hơn nữa để làm gương cho nhân dân.
Các bạn là viên chức của Chính phủ Dân chủ Cộng hòa mà các bạn đã giúp xây dựng nên. Chính thể dân chủ cộng hòa của ta tuy còn trẻ tuổi, nhưng đã chiến thắng nhiều cuộc thử thách, nó đã chứng tỏ rằng quả thật là đầy tương lai. Do đó, nhiệm vụ các bạn phải tuyệt đối trung thành với chính quyền dân chủ.
...Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn cần phải nêu cao cái gương “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” cho nhân dân noi theo.

Thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc, tháng 2-1948, sđd, t.5, tr. 381, 382.

4. ... Học để làm việc,

làm người,

làm cán bộ.

Học để phụng sự Đoàn thể,

“giai cấp và nhân dân,

Tổ quốc và nhân loại”.

Muốn đạt mục đích, thì phải

cần, kiệm, liêm, chính. chí công, vô tư.

Lời ghi ở trang đầu Sổ vàng truyền thống Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương,
tháng 9-1949, sđd, t.5, tr. 684.

5. ... Thương yêu người bệnh - Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ sức khỏe cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang.
Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn.
“Lương y phải như từ mẫu”, câu nói ấy rất đúng.

Thư gửi Hội nghị cán bộ y tế, tháng 2-1955, sđd, t.7, tr. 476.

6. ... Các thầy giáo, các cô giáo phải gần gũi dân chúng. Các thầy giáo cũng như các trí thức khác là lao động trí óc. Lao động trí óc phải biết sinh hoạt của nhân dân, nếu chỉ giở sách đọc thì không đủ. Phải yêu dân, yêu học trò, gần gũi nhau, gần gũi cha mẹ học trò. Giáo dục ở trường và ở gia đình có quan hệ với nhau. Các chú, các cô phải thi đua trao đổi kinh nghiệm. Bác nói thế là hết. Văn hay không cần nói dài.

Nói chuyện tại lớp hướng dẫn giáo viên cấp 2, cấp 3 và Hội nghị sư phạm, tháng 7-1956, sđd, t.8, tr. 225

7. “... Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, “Cố gắng trau dồi tư tưởng nghiệp vụ văn hóa; chú trọng học tập chính trị để nắm vững chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ; đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động”.

Nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Hội nhà báo Việt Nam, ngày 8-9-1962, sđd, t.10, tr. 616.

8. “... Để làm tròn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân; giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hòa mình với quần chúng, cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp, phải hết lòng giúp đỡ thanh niên, làm cho văn nghệ nước nhà ngày càng thêm trẻ, thêm xuân”.

Nói tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ III, ngày 1-12-1962, sđd, t.10, tr. 647.

9. “... Các đồng chí phải là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa và khoa học, kỹ thuật; phải góp tài góp sức để cải tiến bộ mặt xã hội của nước ta, làm cho nhân dân ta sản xuất và công tác theo khoa học và đời sống của nhân dân ta văn minh, tức là khoa học, lành mạnh và vui tươi. Đó là nhiệm vụ rất nặng nề mà cũng rất vẻ vang.

Nói chuyện tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Hội phổ biến khoa học, kỹ thuật Việt Nam, ngày 18-5-1963, sđd, t.11, tr. 78-79.

10. ... Thiết kế và xây dựng phải làm cho chắc, cho kỹ. Tránh làm ẩu rồi phải chữa đi chữa lại, vừa lãng phí sức người, sức của, vừa không tốt cho sản xuất.
Phải tiết kiệm nguyên liệu, vật liệu. Phải giữ gìn tốt máy móc, vì đó là do mồ hôi máu mủ của nhân dân ta mà ra.

Nói chuyện với công nhân, cán bộ ở Uông Bí, Quảng Ninh, ngày 2-2-1965, sđd, t.11, tr. 384.

Nhớ lời di chúc noi gương Bác



Bảy mươi chín mùa xuân trước, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đề ra đường lối cách mạng cứu nước, giải phóng dân tộc. Từ đó, dân ta có Đảng lãnh đạo đã làm nên những kỳ tích, giành độc lập dân tộc, kháng chiến chống xâm lược thắng lợi và đi lên xây dựng đất nước mạnh giàu.

Mùa xuân này đất nước ta đã bước sang chặng đường đổi mới 23 năm với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Mừng Đảng, mừng sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, chúng ta càng thêm nhớ Bác Hồ - Người suốt đời chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh để chèo lái con thuyền cách mạng, đưa nhân dân ta lên vị trí làm chủ nước nhà, có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Mùa xuân này là mùa xuân thứ ba, cả nước đang nỗ lực học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Và, cũng là 40 năm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác.

Trong rất nhiều công việc phải trù liệu trước lúc đi xa, Bác viết trong bản Di chúc lịch sử. "Theo ý tôi, việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân".

Vì Đảng ta là một Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn cặn: "Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".

Cả cuộc đời vì nước, vì dân, với trí tuệ anh minh và lòng yêu nước thương dân vô bờ bến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng vững chắc và chăm lo xây dựng đạo đức cách mạng cho Đảng, cho dân. Điều mà toàn Đảng, toàn dân ta mãi ghi sâu trong tâm khảm là Bác tự rèn luyện, tự tu dưỡng đạo đức cách mạng, tự mình nêu tấm gương đạo đức cách mạng tiêu biểu nhất. Công lao vĩ đại của Bác là đã dày công rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, lấy những tấm gương đạo đức cách mạng xả thân vì dân, vì nước, biểu dương người tốt, việc tốt để giáo dục đạo đức mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: làm cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người là sự nghiệp cách mạng to lớn, vẻ vang cho nên người cán bộ, đảng viên muốn lãnh đạo được nhân dân xóa bỏ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, phong kiến để xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa thì phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang. Bác dạy: "Người cán bộ, đảng viên tốt muốn trở thành người cách mạng chân chính không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào mình thì sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít, mà những tính tốt như cần, kiệm, nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm,… ngày càng nhiều thêm". Đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương cho quần chúng, không được nói trái, làm trái nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bởi vì nếu cán bộ, đảng viên nói trái, làm trái nghị quyết của Đảng, làm sai luật pháp, chính sách của Nhà nước thì nghị quyết, chính sách có đúng, có hay đến mấy cũng khó được quần chúng, nhân dân ủng hộ và thực hiện đầy đủ. Mọi cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng, thực hiện liêm, chính, phát huy quyền làm chủ của nhân dân một cách triệt để, dựa vào quần chúng, nhân dân để chống lãng phí, tham ô, quan liêu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc của người cách mạng. Do đó, bồi dưỡng đạo đức cách mạng gắn liền chống chủ nghĩa cá nhân. Mà "những người mắc bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ "tự tư tự lợi". Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình". Do sa vào chủ nghĩa cá nhân mà làm ô danh Đảng, tham ô, hối lộ, nhũng nhiễu nhân dân làm mất tư cách đạo đức của người cán bộ, đảng viên. Nhưng đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là bỏ qua lợi ích cá nhân. Bác Hồ cũng đưa ra các nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng là tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời, nói và làm đi đôi, nêu gương đạo đức cách mạng, người cách mạng cần luôn luôn tu dưỡng, phấn đấu nâng cao đạo đức suốt đời mới làm tròn vai trò chiến sĩ cách mạng của Đảng tiên phong. Hơn nữa, Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân nên "hễ còn người dân Việt Nam đói rét thì Đảng chưa làm tròn nhiệm vụ". Do đó, mỗi đảng viên, cán bộ của Đảng phải chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phấn đấu rèn luyện mình để xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ trung thành của nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh.

Hơn hai mươi năm đổi mới, Đảng ta hết sức coi trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên theo lý tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chống thoái hóa, biến chất, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, dựa vào nhân dân để chỉnh đốn Đảng, tăng cường mối quan hệ gắn bó của Đảng với nhân dân. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hiện nay, đối với cán bộ, đảng viên, việc bồi dưỡng đạo đức Hồ Chí Minh là học tập, rèn luyện, tu dưỡng làm theo tấm gương đạo đức suốt đời phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân của Bác Hồ. Các cấp ủy đảng cần có các biện pháp đưa đảng viên tham gia các hoạt động cụ thể để phát huy tính tiên phong, gương mẫu. Điều quan trọng nhất vẫn là xác định cho đảng viên tự vươn lên, tự tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng phong cách làm việc đi sâu, đi sát quần chúng, tin tưởng vào sức mạnh nhân dân, gương mẫu thực hiện chính sách của Đảng, luật pháp Nhà nước để lôi cuốn và củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân, thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Mỗi đảng viên, mỗi chi bộ phải thật sự nêu gương về đạo đức, lối sống cần, kiệm, liêm, chính.

Nhớ lời Di chúc, mỗi đảng viên, cán bộ, từng tổ chức đảng cần thật lòng noi gương đạo đức Hồ Chí Minh và làm theo lời dặn của Người, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng như giữ con ngươi của mắt mình, thương yêu đồng chí, tôn trọng nhân dân, làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó, vươn lên xứng với danh hiệu đảng viên của một Đảng anh hùng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.

Học tập và làm theo “phong cách dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh



Trong những bài học và chuẩn mực về phong cách, lối sống đạo đức của Hồ Chí Minh thì "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân" là một trong những nội dung quan trọng.

Phẩm chất cao đẹp đó kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn được đúc kết qua những năm tháng hoạt động cách mạng đã tạo ra phong cách dân vận Hồ Chí Minh, biểu hiện trước hết ở sự gần dân, hiểu dân, liên hệ mật thiết với dân, tạo ra sức mạnh tổng hợp để đưa cách mạng đến thắng lợi. Người đến với dân, gần gũi dân với tình nhân ái bao la. Người từng nói: Mỗi ngày đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên. Quan tâm đến đời sống của dân nên khi tiếp xúc với quần chúng, tác phong của Người rất giản dị. Với đôi dép cao-su, bộ quần áo ka-ki, nụ cười hiền hậu, tấm lòng rộng mở, Người đến tận chỗ nấu ăn, sinh hoạt, nơi làm việc và nói chuyện với mọi người rất ân cần. Người thăm hỏi cặn kẽ về sức khoẻ, đời sống của từng người, căn dặn, chỉ bảo cụ thể, rõ ràng về từng việc cần làm. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải là "người đầy tớ thật trung thành của dân" và phê phán mạnh mẽ bệnh quan liêu. Người chỉ dẫn:

- Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng, muốn thế, nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng…

- Phải tổ chức sự thi hành cho đúng, mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong.

- Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được.

Ba khâu trong quy trình lãnh đạo của cán bộ đều phải từ quần chúng, vì quần chúng và nhất thiết phải có sự tham gia của quần chúng.

Theo Người: "Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc". Người nói và làm như vậy. Người đã nêu một tấm gương sáng về dân vận cho mọi người noi theo. Muốn làm tốt công tác dân vận, trước hết người cán bộ phải có uy tín trước dân. Nhưng, để có uy tín, người lãnh đạo phải nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết điểm để đưa công việc ngày càng tiến bộ. Việc giấu giếm khuyết điểm, sợ quần chúng phê bình, góp ý không chỉ là biểu hiện của sự thiếu trung thực trước Đảng, sự vô trách nhiệm trước sự tiến bộ của bản thân từng cán bộ mà còn là biểu hiện đặc trưng của chủ nghĩa cơ hội, cá nhân.

Thực hiện Nghị quyết của Đảng về đổi mới phong cách công tác, đáp ứng yêu cầu công tác dân vận trong thời kỳ mới, trong những năm qua công tác dân vận của các cấp uỷ Đảng trong tỉnh đã có bước đổi mới về quan điểm đánh giá cũng như nội dung và phương thức lãnh đạo. Qua đó nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công tác quần chúng, đưa công tác dân vận thành một trong những nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng, là nhiệm vụ chủ yếu, thường xuyên của cả hệ thống chính trị, góp phần quan trọng vào việc củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng vững mạnh. Thông qua hoạt động thực tiễn, vai trò của công tác dân vận của mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể được khẳng định. Đội ngũ cán bộ dân vận được bồi dưỡng, rèn luyện, ngày càng gắn bó với dân, trách nhiệm với công việc. Thông qua các phong trào thi đua, các cuộc vận động đã khơi dậy được tinh thần đoàn kết, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, củng cố, xây dựng khối đoàn kết các dân tộc.

Tìm hiểu tư tưởng Bác Hồ về công tác cán bộ



Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ. Đảng ta luôn xác định công tác cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.

Bác Hồ nói về công tác cán bộ nhiều. Và dường như, theo cá nhân tôi, tư tưởng về công tác cán bộ là tư tưởng lớn trong suốt cuộc đời vĩ đại của Người. Sự vĩ đại của tư tưởng ấy là Bác nói là làm. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ là những bài học vô giá, những “nguyên tắc vàng”, là phương pháp luận khoa học để các cấp ủy Đảng, những người trực tiếp làm công tác cán bộ xây dựng đội ngũ cán bộ cho Đảng, cho dân. Nhiều nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu thường xuyên nói về tư tưởng công tác cán bộ “khuôn vàng thước ngọc” của Bác. Và gần như tất cả chúng ta, đều thuộc lòng câu nói nổi tiếng của Bác: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” (1)

Trong phạm vi bài viết ngắn này, chúng tôi không có tham vọng nghiên cứu về tư tưởng lớn đó, mà chỉ nêu vài suy nghĩ như là một sự tự nhận thức, hành động trong cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Trước hết, công tác cán bộ bắt đầu từ đào tạo (bao gồm đào tạo qua trường lớp và đào tạo qua thực tiễn). Trong những năm tháng cam go của cách mạng, Bác Hồ đã tuyển chọn một đội ngũ cán bộ trẻ để đưa sang Trung Quốc, Liên Xô đào tạo; sau đó, đội ngũ cán bộ này quay về hoạt động cách mạng tại Việt Nam. Và chính họ đã trở thành những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những lãnh tụ xuất sắc của Đảng, của dân tộc; mà tên tuổi của họ luôn gắn với những trang sử vẻ vang của dân tộc, của Đảng. Nhiều nhà khoa học danh tiếng cũng đã theo Bác kháng chiến kiến quốc và trở thành những nhà khoa học đầu đàn, đặt nền móng cho sự nghiệp KH&CN nước nhà, có nhiều đóng góp to lớn đối với dân tộc.

Và trong suốt cuộc đời vĩ đại của Bác, công việc đào tạo cán bộ luôn được chăm lo cho cả hiện tại và tương lai- xem như một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Trước lúc đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin, Bác vẫn một tâm niệm: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Việc đào tạo cán bộ phải lâu dài, cần mẫn, chu toàn. Người dạy: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”. Và chỉ rõ: “Không phải vài ba tháng hoặc vài ba năm mà đào tạo được một cán bộ tốt. Cần phải công tác, đấu tranh, huấn luyện lâu năm mới được”. Công tác đào tạo phải được tiếp tục trong quá trình sử dụng cán bộ.

Thứ hai, về sử dụng và bố trí cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát huy và nâng giá trị truyền thống của cha ông “dụng nhân như dụng mộc” thành chuẩn mực, nguyên tắc của công tác cán bộ. Lời dạy giản dị mà sâu sắc của Bác luôn cần phải học hỏi và làm theo: “Người đời ai cũng có chỗ hay, chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được! Nếu không biết tùy tài mà dùng người chẳng khác gì thợ rèn bảo đi đóng tủ, thợ mộc bảo đi rèn dao. Thành thử cả hai người đều lúng túng. Nếu biết tùy tài mà dùng người, thì hai người đều thành công”. Mặt khác, Bác hết sức quan tâm việc cất nhắc, đề bạt cán bộ. Bác nói, cất nhắc, đề bạt cán bộ là “vì công tác, vì tài năng”. Nếu vì “lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang” thì nhất định không ai phục, mà lại gây nên mối lôi thôi trong Đảng”, là “có tội với Đảng, có tội với đồng bào”. Bác lại nói: “Nơi nào mà các cán bộ cấp trên biết lựa chọn và dìu dắt, thì có nhiều cán bộ mới nảy nở và công việc rất phát triển. Trái lại, nơi nào cán bộ cấp trên không biết lựa chọn, dìu dắt, thì vẫn thiếu người mà công việc cứ luộm thuộm”.

Theo Bác, đối với cán bộ, chẳng những phải xem xét kỹ trước khi cất nhắc, đề bạt, mà sau khi đã cất nhắc, đề bạt vẫn phải tiếp tục giúp đỡ họ…Khi họ mới có dấu hiệu sai lầm, khuyết điểm là phải chấn chỉnh ngay, đừng để sai lầm, khuyết điểm trở nên to tát, rồi mới đem ra “chỉnh”… Bác căn dặn: “Phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí công vô tư, không có thành kiến, khiến cho cán bộ khỏi bị bỏ rơi. Phải chịu khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ. Phải vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi mình”.

Đào tạo cán bộ là nhằm tạo ra những người có đủ nhiệt huyết, bản lĩnh, năng lực làm việc, làm việc có trách nhiệm, có hiệu quả. Bác Hồ nói: “Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo, “đập đi, hò đứng”, không dám phụ trách, như thế là một việc thất bại của Đảng”.

Thứ Ba, trong đào tạo, sử dụng cán bộ, cần mạnh dạn giao việc cho cán bộ thực hiện. Giao việc theo tư tưởng của Bác là dân chủ, là phân nhiệm rõ ràng, là đề cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, là phát huy sáng tạo của cán bộ. Bác chỉ rõ: Khi giao trách nhiệm cho cán bộ, phải làm cho họ yên tâm công tác, hứng thú trong công việc. Muốn thế, người lãnh đạo phải làm sao cho cán bộ “cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”, cả gan phụ trách, cả gan làm việc”. Người căn dặn: Người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải có thái độ và cách làm việc thật sự dân chủ, để mọi người xung quanh mạnh dạn, thẳng thắn nói những ưu, khuyết điểm của mình. Người lãnh đạo thật sự dân chủ, ý kiến của cán bộ được thật sự tôn trọng, thì khối đoàn kết nội bộ được củng cố, những sáng kiến được nảy nở, công việc nhất định sẽ được hoàn thành tốt đẹp.

Người nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc thì những khuyết điểm lặt vặt cũng tự sửa chữa được nhiều”. Theo chúng tôi, biện chứng của quan hệ “chân kiềng” (chữ tạm gọi của tác giả) giữa dân chủ, sáng kiến, hăng hái rất cần được vận dụng ngày càng nhiều hơn trong công tác lãnh đạo, quản lý. Có dân chủ thì mọi người mới có sáng kiến, mới hăng hái làm việc. Càng dân chủ thì càng có nhiều sáng kiến. Sáng kiến chỉ ra đời khi người đó tâm huyết, hăng hái làm việc trong một môi trường dân chủ.

Bác căn dặn: “Khi giao trách nhiệm cho cán bộ, cần phải chỉ đạo rõ ràng, sắp đặt đầy đủ. Vạch ra những điểm chính và những khó khăn có thể xảy ra. Những vấn đề đã được quyết định rồi thì giao cho họ làm, khuyên họ cứ cả gan mà làm. Cũng như trong quân đội, khi chiến lược, chiến thuật đã quyết định rồi, thì Tổng tư lệnh không cần nhúng vào những vấn đề lặt vặt. Thà để cho các cấp chỉ huy có quyền “tuỳ cơ ứng biến” mới có thể phát triển tài năng của họ. Việc gì cấp trên cũng nhúng vào, cán bộ cũng như một cái máy, việc gì cũng chờ mệnh lệnh, sinh ra ỷ lại, mất hết sáng kiến”.

Để đảm bảo công việc chung, tuỳ mỗi công việc khi giao, cần phải bàn bạc cách thực hiện cho tốt và củng cố niềm tin hoàn thành nhiệm vụ cho cán bộ. Xong rồi, để cán bộ chủ động làm việc. Bác dạy chân tình: “Trước khi trao công tác, cần phải bàn kỹ với cán bộ. Nếu họ gánh không nổi, chớ miễn cưỡng trao việc đó cho họ. Khi đã trao cho họ phải hoàn toàn tin họ. Không nên sớm ra lệnh này, trưa đổi lệnh khác”

Thay lời kết, công tác cán bộ là công tác lớn của Đảng, bao gồm nhiều công việc và triển khai một cách đồng bộ các khâu: đánh giá, giám sát, quản lý, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ, xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài, thu hút nhân tài vào những lĩnh vực quan trọng. Không phân biệt người trong Đảng, ngoài Đảng....Có những khâu theo trình tự, nhưng cũng có những khâu tiến hành song cùng, đan xen nhau,...Mục tiêu cuối cùng và tối thượng của Đảng ta là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu tham nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải đồng bộ, có tính kế thừa và phát triển, có số lượng và cơ cấu hợp lý” (2).

Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng ta luôn quan tâm công tác cán bộ trong thời kỳ mới trên cơ sở các quan điểm: Công tác cán bộ phải phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc; gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế, chính sách; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ; Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị (3).

Bác Hồ với công tác cán bộ là một lĩnh vực rộng lớn, bao gồm nhiều nội dung, kể cả tư tưởng đối với người làm công tác cán bộ. Những lời dạy ấy đã thành nguyên tắc, phương pháp luận và là những bài học vô giá đối với công tác cán bộ của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các cơ quan, đơn vị và đối với bản thân mỗi cán bộ. Học, làm theo Bác phải bắt đầu từ những tổ chức nhỏ nhất và mỗi cán bộ.


Tài liệu tham khảo:

1. Trích tài liệu “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh” do Ban Tuyên giáo Trung ương xuất bản và các tư liệu trên webstie: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghệ An,...

2. Văn kiện Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam;

3. Chu Thái Thành - Công tác cán bộ của Đảng trong thời kỳ mới- Tạp chí Cộng sản điện tử số 1 (122) năm 2007

4. Các tài liệu điện tử qua google.com về “Bác Hồ với công tác cán bộ”.

SINH HOẠT GIẢN DỊ CỦA BÁC HỒ



Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Hồ sống và làm việc trên chiến khu Việt Bắc, Người luôn luôn giữ một nếp sống giản dị và thanh bạch. Đất nước giải phóng, hòa bình lập lại,trở về Thủ đô, là Chủ tịch nước nhưng Bác vẫn giữ nếp sống ấy.

Tại Phủ chủ tịch, Hà Nội, vào mùa hè nắng chang chang, trời oi ả, Bác vẫn đi bách bộ ra tận đình Hội đồng (Hội đồng Chính phủ hay họp ở ngôi đình cổ này) cách ba, bốn trăm mét. Mồ hôi ra ướt áo. Trời quá nóng bức, bác sĩ Lê Văn Mẫn đi bên cạnh quạt cho Bác. Lúc đầu vì chưa chuẩn bị nên bác sĩ mang theo quạt lông chim, Bác phê bình nhẹ nhàng: Chú làm như ở trong triều ấy. Thấy vậy, ông vội cất đi. Khi Bác đi qua bụi cọ ông nghĩ ra cách cắt mảnh lá cọ làm quạt, chắc Bác vừa ý.

Quạt lá cọ có cái tiện là nếu đầu tua rách thì cắt bớt đi. Ngày hôm sau ông đã có quạt lá cọ đi phe phẩy bên cạnh Bác. Sau khi đi bách bộ xong Bác bảo để quạt lại cho Bác. Về sau ở trong cơ quan xuất hiện rất nhiều quạt lá cọ. Bác sợ lạc mất quạt của mình nên châm thuốc lá vào quạt làm dấu. Bác cũng dùng quạt giấy, nhưng quạt giấy có nhược điểm là lúc mới có mùi hôi, khó chịu, lúc cũ hay gẫy nan. Theo ý Bác ông đã phải làm nẹp băng dính mấy nan gẫy rồi, nhưng Bác không chịu cho thay cái mới.

Bác ăn thanh đạm và vẫn giữ khẩu vị quê hương Nghệ An: dưa, cà, cá quả kho đường khô và chắc. Mỗi tuần Bác nhịn ăn chiều thứ năm. Không ai hỏi Bác tại sao, nhưng anh em đoán Bác muốn đồng cam cộng khổ với nhân dân lao động đang sống khó khăn.

Bữa sáng Bác ăn cháo hoặc phở. Buổi trưa Bác ăn hai miệng bát cơm với dưa và vài quả cà để cùng vào một chiếc đĩa con. Một đĩa thịt nhỏ xào và một bát canh chua. Khi dọn mâm mời Bác thường phải để thêm một bát con thừa. Vào ăn Bác dự liệu nếu ăn không hết thì Bác san canh sang bát con ấy để về sau người khác còn dùng được. Ăn xong tự Bác xếp lại đĩa to, đĩa con, bát to, bát con, để gọn trong mâm, đậy lồng bàn lại. Đồng chí phục vụ chỉ còn việc bê cả mâm đi. Bữa cơm chiều cũng tương tự như bữa cơm trưa.

Câu chuyện trên đây là bài học quý về tiết kiệm, về sự tôn trọng con người và đồng cảm với nhân dân lao động của Bác Hồ kính yêu.