Thứ Tư, 19 tháng 5, 2010

NÓI VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA BÁC

Hồ Chí Minh là sự hội tụ của tinh hoa đông tây kim cổ, cuộc đời và sự nghiệp của Người là bản thiên anh hùng ca bất hủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã đi xa, nhưng để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản vô cùng to lớn - đó là tư tưởng về đạo đức cách mạng.
Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, nền đạo đức đã được hình thành hàng ngàn năm suốt chiều dài lịch sử dân tộc và kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông cũng như tinh hoa đạo đức của nhân loại và dựa trên nền tảng tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Song, với tư duy độc lập và sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức của quá khứ, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Thông qua các tác phẩm, các bút tích gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang được lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy trong lĩnh vực đạo đức cách mạng, Người thường sử dụng nhiều khái niệm, phạm trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước như: trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư đã có trong Nho giáo từ mấy trăm năm trước Công nguyên; hoặc các khái niệm tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái… xuất hiện tại Tây Âu từ thời Hy-La cổ đại. Song Chủ tịch Hồ Chí Minh đã "Việt Nam hóa" thành các khái niệm đơn giản dễ hiểu, dễ thực hiện và gần gũi hơn với cán bộ và nhân dân lao động.
Nhìn chung, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng có thể khái quát thành bốn nội dung cơ bản, là : Trung với nước, hiếu với dân ; Yêu thương con người; Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư và tinh thần quốc tế trong sáng. Trong hàng trăm trang tư liệu gốc – các bản thảo quí hiếm của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam đang có vinh dự được lưu giữ, thì hai nội dung được đề cập đến nhiều nhất, đó là Trung với nước, hiếu với dân và Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Phẩm chất trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống của người phương Đông, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng và đưa vào đó những nội dung mới. Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh không những kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó.
Xét về mối quan hệ của đạo đức thì Bác Hồ đặt ưu tiên hàng đầu cho mối quan hệ giữa dân với nước, giữa nhân dân với tổ quốc. Đây là mối quan hệ chi phối tất cả các mối quan hệ khác. Chính vì vậy, Bác Hồ đặt phẩm chất trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của người đảng viên.
Theo quan điểm Bác Hồ, “trung với nước, hiếu với dân” có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Vì “dân là dân của nước, nước là nước của dân”. Nghĩa là nhân dân là chủ của đất nước. Còn theo quan điểm của đạo đức phong kiến, coi nước là của vua, vua là người quyết định tất cả, còn dân chỉ có nhiệm vụ làm tôi trung theo quan điểm “Quân xử thần tử thần bất tử bất trung” (Vua xử tôi phải chết thì tôi phải chết, không tuântheo lệnh vua là tôi không trung thành). Rõ ràng, quan điểm của Bác hoàn toàn khác hẳn với quan niệm của đạo đức phong kiến. Bác Hồ chỉ rõ: “Trung là trung với tổ quốc, hiếu là hiếu với nhân dân”. Và cũng chính Người là biểu tượng cao đẹp thể hiện phẩm chất này. Suốt cuộc đời vì dân, vì nước. Đến khi chuẩn bị vĩnh biệt thế giới này Bác cũng tính toán sao cho khỏi tốn kém thì giờ và tiền bạc của nhân dân đối với việc riêng của mình. Bác khẳng định: “Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích là làm cho ích nước, lợi dân”.
Còn “hiếu với dân” được Bác cụ thể hóa bằng chủ trương “Đảng và Chính phủ là đày tớ của nhân dân”, “chính quyền phải có trách nhiệm lo cho dân: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành”. Bác còn chỉ rõ: “Chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng ta và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân”. Bác dạy rằng cán bộ các cấp đều là “công bộc của dân, nghĩa là gánh vác việc chung cho dân”. Và, “việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Phẩm chất trung với nước, hiếu với dân được coi là hạt nhân cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Người coi cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của con người mới, đồng thời là chuẩn mực cơ bản của nền đạo đức mới của dân tộc ta. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì cần kiệm liêm chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau. Có khi Người coi cần kiệm như hai chân của con người, phải đi đôi với nhau, có khi Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính quan trọng của mỗi con người, mà thiếu một đức tính thì không thành người.
Đây là phẩm chất được Người đề cập đến nhiều nhất, thường xuyên nhất với một nội dung đạo đức mới rất cách mạng mà vẫn giữ được nền tảng của các khái niệm đạo đức cũ rất quen thuộc với mọi người. Phẩm chất này gắn liền với họat động hàng ngày của mỗi con người và có quan hệ mật thiết với tư tưởng trung với nước, hiếu với dân. Chí công vô tư về thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư và ngược lại. Người có tinh thần chí công vô tư là người ham làm những việc ích nước, lợi dân, không ham địa vị, công danh, phú quý, không nghĩ đến quyền lợi cá nhân. Người cho rằng những cán bộ, đảng viên có đầy đủ đức tính nêu trên sẽ đứng vững trước mọi thử thách, hơn nữa yêu cầu họ phải thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đối với người, với việc và với chính mình.
Người từng nói: “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công, vô tư. Mình đã chí công, vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm. Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm có 5 điều: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” [4]. Có thể thấy rằng từ các khái niệm đạo đức cũ như: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, Người đã đưa vào đây nội dung đạo đức mới bằng cách giải thích nó theo quan niệm mới, với một nội dung hoàn toàn khác, rất cách mạng, phản ánh các mối quan hệ một cách rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu.
Tháng 3-1947, do nhu cầu “kháng chiến, kiến quốc” Bác kêu gọi thi đua xây dựng “đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính” và giải thích rất rõ, dễ hiểu. Tháng 6-1949, để tiếp tục răn dạy cán bộ về đạo đức, Bác viết tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính”. Bác coi bốn đức tính “cần, kiệm, liêm, chính” là những đức tính của người cán bộ cách mạng, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương. Bác viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, kiệm. liêm, chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người".
Sau đó, Bác còn viết bốn bài báo đăng trên báo Cứu quốc giải thích rõ nội hàm bốn đức tính này.
Trước hết, nói về cần: “Cần - làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ về sớm. Làm cho chóng, cho chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để ngày mai. Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi, nước mắt để trả lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân.” Bác yêu cầu mọi người phải cần, cả nước phải cần, Bác viết:
“Người siêng năng thì mau tiến bộ.
Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no.
Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh.
Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu.”
Tóm lại, cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm, cả đời. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”. Nhưng không phải quá trớn, phải biết nuôi dưỡng tinh thần và sức lực để làm việc cho lâu dài. Bác cho rằng “lười biếng là kẻ địch của cần”, vì vậy, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc.
Nói về Kiệm: Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ của dân, của nước, của bản thân mình; tiết kiệm từ cái to, tới cái nhỏ. Kiệm là không xa xỉ, không lãng phí, không bừa bãi.
Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống trong công tác. Cần và kiệm phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người.
Cần mà không Kiệm, “thì làm chừng nào xào chừng ấy” cũng như cái thùng không có đáy, nước đổ vào chừng nào chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không.
Bác yêu cầu “phải lãnh đạo tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm”. Vì “dân đủ ăn, đủ mặt thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ đễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được”.
Cho nên, Kiệm mà không Cần, thì không tăng thêm, không phát triển được. Mà vật gì không tiến tức là thoái.
Nhưng tiết kiệm không phải là bủn xỉn, không phải “xem đồng tiền bằng cái nống” gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Tiết kiệm không phải ép bộ đội, nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc; nhưng khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho tổ quốc, thì bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ. Việc đáng làm trong một giờ mà kéo dài hai, ba giờ là xa xỉ. Cán bộ, đảng viên ăn sang, mặc đẹp trong lúc đồng bào còn nghèo, thiếu cơm, thiếu áo là xa xỉ. Vì vậy, xa xỉ là có tội với tổ quốc, với đồng bào.
Nói về “liêm”, Bác viết: “Những người ở các công sở từ làng cho đến Chính phủ trung ương đều tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ hoặc khoét đục của nhân dân. Đến khi lộ ra, bị phạt thì mất hết cả danh giá mà của phi nghĩa đó cũng không được hưởng. Vậy những người trong công sở phải lấy liêm làm đầu”.
“Liêm là trong sạch, không tham lam”, “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”, “không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham tâng bốc mình”.
Trong các bài viết khác, Bác viết: “Chữ liêm phải đi đôi với chữ kiệm, cũng như chữ kiệm phải đi đôi với chữ cần. Có liệm mới liêm được”. Và, Bác dẫn lời Khổng Tử nói: “Người mà không liêm, không bằng súc vật”. Cụ Mạnh Tử nói: “Ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”.
Nói về chính, Bác viết: “Một người phải cần, kiệm, nhưng còn phải chính mới là người hoàn toàn. Trên quả đất có hàng muôn triệu người sống, số người ấy có thể chia thành hai hạng: Người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc, song, những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc chính và việc tà.
Làm việc chính, là người thiện.
Làm việc tà, là người ác.
Siêng năng (cần), tiết kiệm (kiệm), trong sạch (liêm), chính là thiện; còn lười biếng, xa xỉ, tham lam là ác, là tà.
Bác còn dặn: “Mình là người làm việc cần phải có công tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công minh, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ hay tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con, bầu bạn mà bố họ vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất lòng mà dìm những kẻ có tài hơn mình. Phải trung thành với Chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm quan cách mạng”.
Chính còn có nghĩa là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để công lên trên lên trước việc tư. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng phải tránh”. Theo Bác Hồ thì, cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính không thể thiếu đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì “cán bộ các cơ quan, đoàn thể; cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút”. “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ được cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên tai hại, biến thành sâu mọt của dân”. Cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh, tiến bộ của một dân tộc. “Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm là một dân tộc văn minh, tiến bộ”.
Người cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm, chính là người chí công, vô tư là chính tâm, thân dân - là người có ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của tổ quốc, của Đảng lên trên hết.
Nếu như trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất của mỗi con người - công dân đối với Tổ quốc, đối với nhân dân, thì yêu thương con người là trách nhiệm của mỗi con người đối với con người. Người cho đây là phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Yêu thương con người trước hết là tình cảm dành cho những người bị áp bức, bóc lột, những người cùng khổ. Yêu thương con người còn được thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày với những người đồng chí xung quanh, trong cuộc sống bình thường. Phải luôn nghiêm khắc với bản thân, nhưng rộng rãi độ lượng với ngươì khác. Điều đặc biệt là ở Người, yêu thương con người luôn luôn gắn với niềm tin vào con người, tin vào lương tri, tin vào lòng dũng cảm, tin vào sức sáng tạo của họ trong hành trình con người tự giải phóng lấy mình, để con người làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình.
Có thể nói rằng, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy truyền thống nhân ái, nhân nghĩa của dân tộc kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa nhân văn cộng sản chủ nghĩa. Bác Hồ đã xác định phẩm chất yêu thương, quý trọng con người là một trong những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức cách mạng cao đẹp nhất của người đảng viên.
Lòng yêu thương con người của Bác Hồ trước hết là dành cho đại đa số nhân dân lao động, người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột trên hành tinh chúng ta. Tình yêu thương con người của Bác thật bao la. Tình yêu thương con người đối với đồng bào mình, Bác Hồ chỉ có một ham muốn duy nhất là: “Tôi chỉ có một ham muốn duy nhất, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đối với Bác Hồ, cả cuộc đời chỉ vì dân, vì nước không có gì lớn lao và quý báu hơn dân với nước. Thương yêu dân tộc mình, thương yêu con người. Bác từng nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, là vì mục đích đó”.
Tấm lòng yêu thương con người của Bác Hồ còn được thể hiện rõ trong quan hệ đồng chí, đồng đội, anh em. Nhưng đối với bản thân mình Bác đòi hỏi phải nghiêm khắc, nhưng đối với bạn bè, đồng chí phải rộng rãi, đòi hỏi tất cả mọi người phải có sự tôn trọng con người, tôn trọng lẫn nhau. Đối với cán bộ, đảng viên, Bác dạy học chủ nghĩa Mác-Lênin là để thương yêu nhau hơn. Bác nói: “Học chủ nghĩa Mác-Lênin là để sống với nhau cho có nghĩa, có tình”. Đối với Bác chỉ có nâng con người lên, chứ không cho phép hạ thấp, vùi dập con người xuống, dù cho họ có khuyết điểm, thiếu sót. Vì vậy, phải thực hiện tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao điểm tích cực, hạn chế những tiêu cực để mỗi người,ngày càng tốt hơn, có ích hơn cho Đảng, cho đất nước. Và, Bác khuyên mọi người trong tự phê bình phải thẳng thắn, chân thành để giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Bác dạy “Ở đời ai cũng có chỗ tốt, chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”. Đối với Đảng, Bác đòi hỏi “Đảng phải thương yêu cán bộ, nhưng thương yêu không phải vỗ về, nuông chiều, thả mặc. Thương yêu là giúp cho họ học tập thêm, tiến bộ thêm”.
Tình thương yêu con người, thương yêu nhân dân của Bác càng thể hiện rõ hơn trong Di chúc của Bác. Trong Di chúc, Bác căn dặn Đảng và Chính phủ thực hiện công việc đầu tiên trong hàn gắn vết thương sau chiến tranh là “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Đầu tiên là đối với cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong; đối với các liệt sĩ; với cha, mẹ, vợ, con thương binh, liệt sĩ; với phụ nữ, nông dân…. cuối cùng là những nạn nhân của chế độ cũ…Bác không bỏ xót đối tượng nào cả, thể hiện một tấm lòng thương yêu đối với tất cả mọi người.
Người đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cá nhân và giai cấp, giữa dân tộc và quốc tế, giữa truyền thống và hiện đại tạo ra trong quan niệm về đạo đức cách mạng sự hài hòa về các mối quan hệ lợi ích. Theo Người, tinh thần quốc tế trong sáng thực chất là chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người cho rằng nếu tinh thần yêu nước không chân chính, tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn tới tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, hẹp hòi, sô vanh, biệt lập, kỳ thị chủng tộc. Từ rất sớm, Người đã chủ trương quan hệ với các quốc gia dân tộc và các tổ chức trên thế giới để thêm bạn, bớt thù. Quan điểm dân tộc đã được thổi vào thời đại, đã vượt qua biên giới quốc gia, hướng tới mục tiêu độc lập, dân chủ, hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
Hồ Chí Minh không chỉ nêu ra những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức cách mạng mà điều rất quan trọng, rất thuyết phục là chính Người là hiện thân của những phẩm chất đó để chúng ta học tập.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, dù là người phụ bếp, đốt lò, rửa bát hay trên cương vị là đại biểu của Quốc tế cộng sản, Chủ tịch nước - Hồ Chí Minh luôn nêu cao lối sống cần kiệm, giản dị, không màng danh vọng, không ham của cải, không ham sự xa hoa, không chuộng những nghi thức sang trọng. Bác luôn dành sự quan tâm đặc biệt tới đời sống của nhân dân. Bác nói: “Người ta ai cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp, nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc nhân dân ta còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn ngon, mặc đẹp, như vậy là không có đạo đức”(12). Trước cảnh dân đói năm 1945, Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào cả nước nhường cơm, sẻ áo cho nhau: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo. Như vậy, thì những người nghèo sẽ có bữa rau, bữa cháo để chờ mùa lúa năm sau, khỏi đến nỗi chết đói”(13). Bác đã gương mẫu nhịn ăn vào tối thứ 7, tự tay bỏ gạo vào hũ cứu đói dân nghèo. Chiếc áo lụa đồng bào tặng, Bác cũng cho đem bán lấy tiền mua áo ấm tặng cho chiến sỹ trong mùa đông giá rét. Số tiền tiết kiệm ít ỏi là tiền nhuận bút các báo gửi cho Bác, Bác cũng cho đem mua nước uống tặng các chiến sỹ trực phòng không trong những ngày hè nóng bức. Bác thường nói: chiến sỹ còn đói, khổ tôi ăn ngon sao được, chiến sỹ còn rách rưới mình mặc thế này cũng là đầy đủ lắm rồi.
Những cử chỉ cao đẹp đó không chỉ là tình cảm, tình thương bao la của Bác với đồng bào, chiến sỹ mà còn thể hiện sâu sắc những giá trị đạo đức cách mạng ở Hồ Chí Minh. Sự tiết kiệm, giản dị, thanh liêm được thể hiện đậm nét trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của Bác.
Về chi tiêu: Những năm hoạt động ở nước ngoài, Người đã tự thân lao động kiếm tiền để hoạt động cách mạng, chi tiêu rất tiết kiệm. Đến khi làm Chủ tịch nước, cả trong kháng chiến, cả trong hoà bình, Bác luôn cân nhắc kỹ càng việc không đáng tiêu thì một xu cũng không tiêu.
Về bữa ăn: Ông Đinh Văn Cẩn người nấu ăn cho Bác từ hồi ở chiến khu Việt Bắc đến những ngày cuối đời, kể lại: Bác quy định hồi đó mỗi bữa không quá 3 món, thức ăn đủ, tránh lãng phí. Bác ưa các món dân gian, dưa cà, mắm tép, cá kho. Khi đi công tác địa phương Bác dặn các đồng chí phục vụ chuẩn bị cơm nắm, thức ăn từ nhà hoặc mang nồi đi nấu cho tiết kiệm, tránh các nơi đón tiếp linh đình, tốn phí. Có lần Bác đến thăm một địa phương, các cụ mổ bò để đón, nhưng Bác nói: Các cụ đã mổ bò thì để các cụ và dân làng ăn, Bác cháu ta cứ ăn cơm đã mang theo.
Về trang phục: Bác thường xuyên mặc bộ kaky, đi dép lốp, dùng túi vải, mũ cát, đôi khi kể cả đi công tác ngoài nước.
Về ở: Bác không chọn dinh thự cao cấp, đầy đủ tiện nghi sang trọng mà lại ở trong gian nhà vốn là nơi ở của người thợ hoặc một căn nhà sàn, Bác sống giản dị đến giây phút cuối cùng của cuộc đời. Trước lúc đi xa Người còn căn dặn: Khi Bác qua đời chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân…
Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng Cần, Kiệm, Liêm Chính, Chí công vô tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những giá trị đạo đức cao đẹp của thời đại. Trải qua thời gian và thử thách, trước những biến cố thăng trầm của lịch sử những phẩm chất đạo đức đó vẫn còn nguyên giá trị. Tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết đối với mỗi cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là một di sản tinh thần vô cùng quí báu của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, vấn đề đặt ra không chỉ ở chỗ thừa nhận và khẳng định những giá trị thực tiễn to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh, mà một điều rất quan trọng là vận dụng và phát triển những giá trị tư tưởng đó vào sự nghiệp xây dựng đội ngũ cán bộ của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.