Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2012

Những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức đối với Phụ nữ

1 … Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người.
Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa.
… Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự mình phải tự cường, phải đấu tranh.

Bài nói tại Hội nghị cán bộ thảo luận Luật Hôn nhân và gia đình
ngày 10-10-1959, sđd, t.9, tr 523, 524.

nhung nguyen tac va chuan muc 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nữ đại biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III,
tháng 9 năm 1960. (Ảnh tư liệu)


2. … Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã nêu rõ chính sách nam nữ bình đẳng, Hiến pháp ta đã xác định chính sách đó. Trong mọi việc, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Vậy chị em phụ nữ ta phải nhận rõ địa vị làm người chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để làm trọn nghĩa vụ mới của mình là góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội…
 
Bài nói chuyện tại Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III
ngày 9-3-1961, sđd, t.10, tr. 296.


nhung nguyen tac va chuan muc 2
 
Bác Hồ với các đại biểu phụ nữ các dân tộc Việt Bắc năm 1959. (Ảnh tư liệu)

3. Phụ nữ cũng là người chủ nước nhà. Để xứng đáng là người chủ thì chị em phải ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm…

4. Phụ nữ cần phải xung phong trong việc xây dựng đời sống mới. Ở miền núi đang còn những phong tục không tốt do bọn phong kiến để lại, như: ma chay, cúng bái rất tốn kém. Cưới vợ, gả chồng quá sớm. Vệ sinh phòng bệnh, v.v… còn kém. Đó là những mê tín và hủ tục nên xóa bỏ, để xây dựng mỹ tục thuần phong.
 
5. Đoàn kết là sức mạnh. Đồng bào miền núi, trước hết là chị em phụ nữ, cần phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Đoàn kết giữa dân tộc mình, đoàn kết giữa các dân tộc. Đoàn kết với đồng bào miền xuôi lên phát triển kinh tế miền núi…

6. Để làm tốt những việc nói trên, chị em phải cố gắng học tập. Học văn hóa, học chính trị, học nghề nghiệp. Nếu không học thì không tiến bộ. Có quyết tâm thì nhất định học được…

Nói chuyện Hội nghị cán bộ phụ nữ miền núi,
ngày 19-3-1964, sđd, t.11, tr. 215

(theo Một số lời dạy và mẫu chuyện về 
Tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Nxb Chính trị quốc gia)



Bác Hồ với phụ nữ: Quyền bình đẳng của phụ nữ



Nhà thơ Tố Hữu đã từng ca ngợi Bác Hồ:
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người
Vâng, trong những “kiếp người” chung của cả dân tộc, Bác đã giành sự quan tâm đặc biệt đến phụ nữ.


. Mà điều Bác quan tâm nhất là vấn đề giải phóng phụ nữ. Nếu vấn đề giải phóng phụ nữ là vấn đề cơ bản nhất trong các vấn đề của phụ nữ thì quyền bình đẳng giữa nam và nữ lại là nội dung quan trọng nhất, cốt lõi nhất của vấn đề này. Chính vì vậy mà Bác đã khẳng định: “Công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Đàn bà có quyền bình đẳng với đàn ông về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình”
Vì sao Bác lại khẳng định như vậy?
Hơn ai hết, Bác là người hiểu rõ rằng: Trong xã hội, người phụ nữ là người bị áp bức, chịu đau khổ và thiệt thòi nhiều nhất:
Dưới chế độ phong kiến, người phụ nữ không được coi trọng. Cái quan niệm: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” ấy đã khiến chị em suy nghĩ thật xót xa:
“ Thân em như cái chổi đầu hè
Phòng khi mưa gió cho chàng chùi chân”
Do vậy, họ là nạn nhân của chế độ “đa thê”:
“Trai thì năm thê bảy thiếp
Gái chính chuyên chỉ có một chồng”
Chế độ đa thê ấy làm cho người phụ nữ lâm vào hoàn cảnh thật éo le. Vì vậy mà Bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương đã phải cất lên tiếng chửi: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!”
Cách mạng tháng Tám thành công, phụ nữ được thừa nhận quyền bình đẳng, chế độ một vợ một chồng được thực hiện nhưng trong thực tế, phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi:
Những đối xử tồi tệ, những đánh đập dã man vẫn xảy ra với phụ nữ. Có chị em bị hắt hủi vì không sinh được con trai; có chị em bị chồng dùng kìm điện, dao nhọn, que gỗ lim để tra tấn đánh đập với những hành động dã man hơn cả thời trung cổ (báo phụ nữ số 7057). Ngay ở ngoại thành Hà Nội, người ta cũng ngang nhiên nhục hình một phụ nữ, lột quần áo chị rong khắp làng chỉ vì nghi chị có quan hệ bất chính với một người trong dòng họ.
Những hiện tượng trên làm nhức nhối mỗi chúng ta.
Mặt khác, người phụ nữ phải làm việc nhiều nhất là các công việc nội trợ, việc gia đình dẫn đến sự thiếu thốn về thời gian, suy giảm thể lực. Lúc này có sự mâu thuẫn giữa hai chức năng: chức năng lao động xã hội với tư cách là một công dân bình đẳng với nam giới; chức năng tái sản xuất sức lao động cho xã hội với tư cách là người vợ, người mẹ, người nội trợ trong gia đình nhưng vẫn chưa được bình đẳng với nam giới.
Trong khi đó, phụ nữ là lực lượng quan trọng của cách mạng, sẵn sàng đi với cách mạng. Người phụ nữ còn có chức năng đặc biệt: Tái sản xuất sức lao động cho xã hội, thực hiện thiên chức làm vợ, làm mẹ, có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của gia đình. Vì vậy, có một nhà giáo dục đã viết: Giáo dục một người đàn ông, ta được một gia đình, giáo dục một người phụ nữ ta được cả một thế hệ. Do đó, Người đề ra nhiệm vụ cho Đảng phải chăm lo giải phóng phụ nữ.
Tư tưởng nam nữ bình quyền của Bác được ghi trong luận cương của Đảng, được thể chế hoá sớm nhất trong điều 9 Hiến pháp năm 1946. Từ đó, quyền bình đẳng nam nữ được công bố và thừa nhận qua các văn bản quan trọng, Hiến pháp, pháp luật về hôn nhân và gia đình, các chỉ thị, chính sách… đối với lao động nữ. Tư tưởng của Bác phù hợp với Tuyên bố của thế giới về quyền của con người: mọi dân tộc trên thế giới đều có quyền hưởng TỰ DO và BÌNH ĐẲNG.
Quyền bình đẳng thật sự của người phụ nữ theo Bác là người đứng ngang hàng với đàn ông để hưởng mọi quyền công dân. Thực chất của vấn đề bình đẳng nam nữ được Bác quan tâm không chỉ ở góc độ chính trị mà còn ở cả góc độ kinh tế, không chỉ ngoài xã hội mà trong cả lĩnh vực gia đình, gia tộc; không chỉ ở góc độ nghĩa vụ mà còn là quyền lợi: quyền bầu cử và ứng cử, quyền được đào tạo, học hành, quyền được tham gia lao động xã hội, được tự do trong hôn nhân, được tham gia vào các cấp lãnh đạo quản lý Nhà nước và Đảng...
Với cương vị của một Chủ tịch nước, trong những lo lắng quan tâm chung cho đồng bào cả nước, Bác luôn quan tâm tới sự bình đẳng của phụ nữ Việt Nam. Rất nhiều lần Người phê phán những thái độ đối xử không tốt đối với phụ nữ như coi thường không tin tưởng chị em, tệ đánh vợ...Mỗi hội nghị, nếu có đại biểu nữ, Bác thường mời lên đầu, ân cần hỏi han đến chuyện gia đình con cái, đến cuộc sống và những khó khăn riêng của chị em. Bác không cho đoàn đại biểu của một tỉnh chụp chung ảnh với Bác vì trong đoàn không cử phụ nữ...Quyền lợi chính trị của chị em luôn được Bác chú ý. Bác nói Đảng và Chính phủ sẵn sàng tạo điều kiện cân nhắc và giao cho phụ nữ những chức trách quan trọng.
Cần phải nói rằng không phải ai cũng có được một cái nhìn tiến bộ về phụ nữ như Bác. Suốt chiều dài của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, những lời khen ngợi động viên, những đánh giá cao của người luôn là điểm tựa tinh thần lớn lao để phụ nữ nước ta hoàn thành nhiệm vụ. Tự hào thay khi Bác ca ngợi phụ nữ chúng ta:
“Phụ nữ ta chẳng tầm thường
Đánh đông dẹp bắc làm gương để đời”.
Chúng ta thật xúc động khi nghe Bác nhận xét chị Nguyễn Thị Định - một người phụ nữ Việt Nam tiêu biểu: “phó Tổng tư lệnh quân giải phóng là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho Miền Nam cho cả dân tộc!” Và Bác đã thay mặt cho Đảng, Nhà nước tặng phụ nữ Miền Nam nói riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung 8 chữ vàng: ANH HÙNG-BẤT KHUẤT-TRUNG HẬU-ĐẢM ĐANG.
Thái độ đối xử bình đẳng với phụ nữ của Bác không phải là cái gì khác ngoài lòng tin cậy, đánh giá cao vai trò và năng lực của người phụ nữ, động viên khơi dậy những năng lực tiềm tàng ở họ để làm tròn những trách nhiệm được giao.
Không những Bác quan tâm đến quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam mà Bác còn quan tâm đến cả phụ nữ quốc tế. Khi đến thăm tượng Thần Tự Do ở Mỹ, trong khi rất nhiều chính khách viết những lời ca ngợi Thần với những ngôn từ đẹp nhất thì Bác, lúc đó là Nguyễn Ái Quốc đã ghi một câu đại ý: Thần Tự Do toả ánh sáng khắp nơi nhưng dưới chân Thần vẫn còn những người phụ nữ bị đánh đập. Bao giờ người phụ nữ nhất là người phụ nữ da đen mới được tự do, bình đẳng? Tấm lòng của Bác mênh mông sâu thẳm biết bao!
Mỗi giới đều có vai trò riêng của mình: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”, song để phụ nữ được bình đẳng với nam giới về mọi mặt, Bác cũng chỉ rõ: Giành lại quyền bình đẳng cho phụ nữ là cuộc cách mạng lâu dài, to lớn và khó nhất chứ không phải là việc: Hôm nay anh nấu cơm, quét nhà, rửa bát; ngày mai em rửa bát, quét nhà, nấu cơm; Cần có nhiều chủ trương chính sách, sử dụng biện pháp tổng hợp toàn diện về kinh tế, văn hoá xã hội để giải quyết vấn đề phụ nữ. Đặc biệt bản thân chị em phải tự lực tự cường phấn đấu để vươn lên, rèn luyện theo các tiêu chí: có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng nhân đạo để khẳng định mình.
Kế thừa tư tưởng tiến bộ của Bác về vấn đề bình đẳng giới, đất nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách thích hợp để phát huy vai trò thế mạnh của phụ nữ. Nghị quyết số 11 của Bộ chính trị - BCHTW Đảng khoá X về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước đã ghi rõ: “Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp uỷ Đảng các cấp đạt từ 25% trở lên, nữ đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp từ 35 đến 40%, các cơ quan đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ...”
Có thể nói rằng tư tưởng giải phóng phụ nữ, đem lại quyền bình đẳng cho phụ nữ của Bác có ý nghĩa hết sức lớn lao: tư tưởng ấy đã chỉ dẫn cho người phụ nữ Việt Nam, cổ vũ chị em trên con đường đấu tranh đi tới bình đẳng tự do cùng nhân loại tiến bộ. Tư tưởng ấy cũng cho mỗi chúng ta một bài học nhân văn: coi trọng con người, tất cả vì con người.

BÁC HỒ VỚI PHONG TRÀO PHỤ NỮ VIỆT NAM

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Bác Hồ luôn quan tâm đến phong trào bình đẳng và sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam . Đối với Bác việc giải phóng phụ nữ luôn gắn chặt với việc giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người.

Nhân kỷ niệm 79 năm, ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (1930-2009) chúng tôi xin giới thiệu những tình cảm thiêng liêng mà Bác đã dành cho nhiều thế hệ phụ nữ Việt Nam.

Thật vậy, suốt cả cuộc đời, Bác đã để lại cho chúng ta nhiều thứ quý giá, chẳng những riêng cho một ai mà gần như cả dân tộc đều được tận hưởng những giá trị tình cảm này - Nhà thơ Tố Hữu trong bài Bác ơi đã lột tả toàn bộ tâm trạng này "Bác sống như trời đất của ta/ Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa/ Tự do cho mỗi đời nô lệ/ Sữa để em thơ, lụa tặng già". Nhưng có lẽ trong muôn ngàn dòng suối nghĩa tình đó, đối với thế hệ đã thoát ra từ gông cùm của một ý thức hệ, đâm đặc cô đọng cả hàng ngàn năm phong kiến, đó là phụ nữ Việt Nam, thì giá trị tình yêu thương mà Bác đã dành cho họ càng sâu nặng nghĩa tình nhiều hơn.

Trong một lần phỏng vấn đài truyền thanh nước ngoài, Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước đã tâm sự "Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng con đường giải phóng phụ nữ Việt Nam. Người đã thức tỉnh phụ nữ tham gia giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại và từ đó giải phóng chính mình" Bác đã nhận thấy được sự bất bình đẳng nam nữ trong xã hội phong kiến để lại, nếu để tiếp tục sẽ dẫn dắt đến hậu quả bởi tư tưởng lạc hậu, sẽ khó phát triển về kinh tế và xã hội, vì vậy người đã kêu gọi "Thực hiện nam nữ bình quyền" không lý thuyết suông mà phải hành động cụ thể, trước hết quyền lợi của phụ nữ phải phải đặt lên hàng đầu, nhất là quyền lợi trong các hoạt động kinh tế, quyền lợi trong xã hội và ngay chính trong cuộc sống gia đình.

Người khẳng định: “Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng xã hội một nửa”.

Bác thường phân tích cho chúng ta thấy, phụ nữ không thua kém nam giới khi được tạo mọi điều kiện thuận lợi, trong diễn ca "Lịch sử nước ta" người viết: "Phụ nữ ta chẳng tầm thường/ Đánh Đông dẹp Bắc làm gương để đời/" kể cả khi nói về phụ nữ Việt nam thời xưa, người cũng rất hãnh diện tự hào "Hai Bà Trưng có đại tài/ Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian/ Ra tay khôi phục giang sơn/ Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta", "Tỉnh Thanh Hóa có một bà/ Tên là Triệu Âu tuổi vừa đôi mươi/ Tài năng dũng cảm hơn người/ Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương". Người căn dặn "Hai Bà Trưng để lại cho phụ nữ Việt Nam một truyền thống vẻ vang là dũng cảm kháng chiến....., thì: Phụ nữ Việt Nam ta cũng phải xứng đáng là con cháu Hai Bà".

Khi cả dân tộc cùng đứng lên kháng chiến đánh đuổi giặc ngoại xâm, Bác luôn biểu dương những đóng góp to lớn của phụ nữ : “Miền Nam anh hùng có đội quân đấu tranh chính trị gồm hàng vạn chiến sĩ toàn là phụ nữ. Họ rất mưu trí và dũng cảm làm cho địch phải khiếp sợ và gọi họ là “đội quân tóc dài”. Phó Tổng Tư lệnh Quân giải phóng là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta..”. Người khẳng định "Dưới chế độ tốt đẹp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phụ nữ đã thật sự làm chủ Nhà nước".

Khi bàn về việc ứng cử và đề cử chức danh Chủ nhiệm HTX, Bác đề nghị với xã viên hãy lựa chọn nhiều ứng cử viên là phụ nữ vào cương vị này, Bác nói " Phụ nữ làm chủ nhiệm đâu có đánh chén, chủ nhiệm nữ lại thật thà, phải đưa nhiều phụ nữ tham gia làm chủ nhiệm".

Khi phát biểu tại lễ kỷ niệm 20 năm ngày Thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Bác Hồ đã nhắc đến truyền thống yêu nước đầy tự hào của người phụ nữ Việt Nam: “Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc, cứu dân cho đến ngày nay mỗi khi nước nhà gặp nguy nan, thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Do đó ta có câu tục ngữ rất hùng hồn: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Nhân dân ta rất biết ơn các bà mẹ cả hai miền Nam, Bắc đã sinh đẻ và nuôi dạy những thế hệ anh hùng của nước ta” người khẳng khái kết luận "Dân tộc Việt Nam là dân tộc anh hùng... Phụ nữ Việt Nam là phụ nữ anh hùng", Sau khi đã trở thành Chủ tịch nước, Người vẫn luôn hướng tình cảm của mình đối với những người phụ nữ. Năm 1952, nhân kỷ niệm Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế phụ nữ, Người đã gửi thư ngợi khen: "Non sông gấm vóc Việt Nam do Phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ".

Trong sự nghiệp CM, Phụ nữ nước ta còn được Bác khen tặng những thành tích trong học tập, rèn luyện và đóng góp trên tất cả lĩnh vực về kinh tế- chính trị - xã hội và an ninh quốc phòng.... “Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hàng vạn phụ nữ đã trở thành cán bộ chuyên môn trong các ngành và cán bộ lãnh đạo... Theo gương các bà, các mẹ và các chị anh hùng, nhiều cháu thiếu niên nhi đồng gái cũng rất ngoan... Như thế là từ xưa đến nay, từ Nam đến Bắc, từ trẻ đến già, phụ nữ Việt Nam ta thật là anh hùng...”

Trong tác phẩm "Ðường Kách mệnh", Bác cũng từng viết: "Ông Các Mác nói rằng: Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi: "ông Lê-nin nói: Ðảng cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như thế cách mệnh mới gọi là thành công...".

Bác Hồ không chỉ quan tâm đến công việc bình đẳng trong xã hội của người phụ nữ mà con lo cả sức khỏe và hạnh phúc gia đình của người phụ nữ, câu chuyện kể rằng "Một lần đến thăm một đơn vị nữ thanh niên xung phong, Bác nghe báo cáo, đi xuống tận đơn vị sản xuất rồi góp ý với lãnh đạo đơn vị: “Đi chặt gỗ, việc ấy nặng nhọc, lúc hăng các cháu làm được hết; hay đi đắp đường, chỗ núi non khó khăn, các cháu cũng làm được. Nhưng lãnh đạo không nên để các cháu làm những việc như thế. Con gái có kinh chẳng hạn, trong lúc có kinh lội nước, dầm mưa, sau này sức khỏe không tốt, cho nên phân phối công tác cho phụ nữ phải thích hợp...”. Lần ấy, các nữ TNXP đã rơi nước mắt trước nỗi lo toan rất đời thường của vị Chủ tịch nước. Tình yêu thương của Bác dành cho phụ nữ luôn có một vị trí đặc biệt quan trọng, khi Bác để tâm đến từng chi tiết nhỏ trong đời thường.

Tháng 1-1963, trong phiên họp của Bộ Chính trị để bàn về những vấn đề quan trọng của cách mạng, Người đã đọc một bức thư của một phụ nữ trong cuộc họp này, đó là bức thư một nữ cán bộ cách mạng ở Vĩnh Phúc bị chồng đối xử đánh đập tàn tệ mà không được chính quyền đoàn thể can thiệp, cán bộ đảng viên thì lẩn tránh. Bác xem đó là tội ác, là tàn dư còn lại tồi tệ nhất của chế độ cũ và yêu cầu cuộc họp ưu tiên giải quyết trường hợp này trước. Câu chuyện nầy đã làm Bác suy tư rất nhiều, nên trong dịp gặp gỡ cán bộ tỉnh Hà Tây vào ngày 10-2-1967, Bác phê phán tình trạng chồng đánh vợ và khẳng định đây là tệ nạn về mặt đạo đức và vi phạm pháp luật: “Đàn ông là người công dân, đàn bà cũng là người công dân, dù là vợ chồng, người công dân này đánh người công dân khác tức là phạm pháp”.

Những người phụ nữ Việt Nam thật sự xúc động khi biết rằng, vào những năm tháng cuối cùng của đời mình, Người đã để lại cho chúng ta bản Di chúc quý giá, trong đó có những dòng viết riêng cho phụ nữ Việt Nam . "Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ ta đảm đang đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất, Ðảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Ðó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ". Đó là dòng chữ tràn đầy trách nhiệm của Đảng và Nhà nước và là tình cảm thiêng của vị Cha già Dân tộc, của Bác Hồ kính yêu dành cho phụ nữ của chúng ta hôm nay./.

(SƯU TẦM)

CÁC BÀI THƠ CỦA BÁC VỀ PHỤ NỮ

Theo thống kê của chúng tôi, Bác Hồ có 8 bài thơ viết về hình tượng người phụ nữ:
1. Người bạn tù thổi sáo (Nạn hữu xung địch)
2. Chiều tối (Mộ)

3. Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng (Nạn hữu chi thê thám giam)
4. Gia quyến người bị bắt lính (Trưng binh gia quyến)
5. Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng (Dạ bán văn khốc phu)
6. Phụ nữ
7. Cảm ơn người tặng cam
8. Khen 11 cháu dân quân gái thành phố Huế.

Bác Hồ - “một tình yêu thương bao la”. Cuộc đời, tâm hồn, hành động và những trước tác của Người đã nói với chúng ta điều ấy. Ở đây chúng tôi xin tìm hiểu kỹ thêm tấm lòng của Người đối với phụ nữ trên cứ liệu 8 bài thơ trên. Chúng tôi thấm thía niềm cảm thông của Bác với những cảnh ngộ đau lòng mà người phụ nữ phải hứng chịu. Một cảnh ngộ “chồng chết”:
Hỡi ôi! Chàng hỡi, hỡi chàng ơi!
Cơ sự vì sao vội lánh đời?
Để thiếp từ nay đâu thấy được
Con người tâm ý hợp mười mươi
(Ô hô phu quân, hề phu quân!
Hà cố phu quân cự khí trần?
Sử thiếp tòng kim hà xứ kiến.
Thập phần tâm hợp ý đầu nhân)
(Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng)

Tên bài thơ là của tác giả, của Bác Hồ: Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng lời bài thơ không còn là của Bác nữa mà là lời của người góa phụ. Nửa đêm là thời điểm yên tĩnh nhất, thanh vắng nhất và con người lúc ấy cũng có nhu cầu sinh học chìm sâu vào giấc ngủ để thư giãn sau một ngày lam lũ. Nhưng cũng thời điểm ấy, trong nhà lao Bác bỗng nghe tiếng khóc xót xa, đau đớn của người phụ nữ mất chồng. Mà phụ nữ ngày trước, nhất là phụ nữ sống trong xã hội Trung Quốc cổ hủ lạc hậu thì “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (Ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con) nên phụ thuộc tuyệt đối vào chồng. Có con thì may ra còn chỗ dựa, chưa có con mà chồng chết thì bơ vơ. Câu mở của bài thơ là tiếng khóc: “Hỡi ôi! Chàng hỡi, hỡi chàng ơi!” (Ô hô phu quân, hề phu quân) đúng là lời, là giọng của người có chồng chết. Câu thơ ngắt ra như tiếng nấc nghẹn ngào. Những từ cảm thán láy lại đẫm nước mắt. Câu thứ hai là sự ngạc nhiên ai oán đến bàng hoàng: “Cơ sự vì sao vội lánh đời?”. Thời điểm khóc (nửa đêm) và câu hỏi đầy ai oán ở câu hai này cho thấy bi kịch người chồng chết trẻ, đột ngột và dĩ nhiên người góa phụ cũng mới cưới chồng. Mới cưới chồng nên mới có câu cuối là một nhận định: “Con người tâm ý hợp mười mươi”. “Tâm ý hợp mười mươi” mà nay kẻ ở cõi trần người xuống cõi âm ngàn trùng xa cách nên càng đau. Thơ hay là thơ người đọc không còn cảm thấy câu chữ mà chỉ thấy tình người. Bài thơ này là như vậy. Bác Hồ đâu có dụng công chữ nghĩa nhưng đã làm nổi lên một hoàn cảnh, một bi kịch, một số phận. Tác giả đã nhập thân vào nhân vật, nhập thân vào hoàn cảnh mới có câu thơ đẫm nước mắt ấy.

Tên bài thơ đúng là của Bác: Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng nhưng nội dung bài thơ thì không còn là của Bác nữa mà là nỗi lòng của nhân vật trữ tình. Bác như đau cùng nỗi đau của nhân vật mà nói ra nỗi đau ấy bằng ngôn ngữ của thơ.
Một cảnh ngộ “đi tù thay”:
Biền biệt anh đi không trở lại
Buồng the trơ trọi, thiếp ôm sầu
Quan trên xót nỗi em cô quạnh
Nên lại mời em tạm ở tù
(Gia quyến người bị bắt lính)


Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng tố cáo, tố cáo chính sách bắt lính tàn bạo của chính quyền phản động Tưởng Giới Thạch lúc bấy giờ. Đi lính là một nỗi khiếp sợ vì đi lính cho chính quyền là đi vào chỗ chết oan uổng, thế cho nên người ta phải trốn, trốn biệt “biền biệt anh đi không trở lại”. Điều ấy đã gián tiếp tố cáo sự phi nhân của chế độ, sự phi nghĩa của chiến tranh. Không những thế chính quyền lại bắt người vợ có chồng trốn lính đi tù, thì sự vô nhân đạo càng thể hiện gấp bội. Người vợ trong cảnh “Buồng the trơ trọi” là một nỗi sầu, nay phải vào tù, “một ngày tù ngàn thu ở ngoài”, nỗi sầu lại nhân lên gấp bội phần. Bài thơ còn là tiếng cười châm biếm sâu cay sự vô nhân của chế độ đồng thời cũng là tiếng cười xót xa, tiếng cười ra nước mắt về số phận cay đắng của người phụ nữ. Cũng chủ đề “ đi tù thay” chúng ta thấy có bài Cháu bé trong nhà lao Tân Dương, chỉ cần đọc hai bài thơ cùng chủ đề này người đọc cũng thấy được mối quan tâm đặc biệt của Bác, tình yêu thương đặc biệt của Bác tới phụ nữ và trẻ em.
Một cảnh ngộ “vọng phu”
Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu
Muôn dặm quan hà khôn xiết nỗi
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau
(Người bạn tù thổi sáo)

Xa nhà thường là nhớ quê. Xa nhà trong hoàn cảnh tù đày thì nỗi nhớ quê càng sâu sắc. Thế cho nên “khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu” là dễ hiểu. Cảm động nhất là hình tượng “khuê nhân” - vợ của người bạn tù bước thêm một tầng lầu để ngóng chồng. Nhưng “thiên lý quan hà vô hạn cảm” (Muôn dặm quan hà, khôn xiết nỗi), người vợ ấy đành ngóng chồng trong tưởng tượng, cái nhìn trong không gian vật lý bất lực phải chuyển vào không gian tâm lý, vào cõi lòng của mình. Xót xa thay!
Lại một cảnh ngộ đau đớn khác, gặp mà không gặp:
Anh ở trong song sắt,
Em ở ngoài song sắt;
Gần nhau chỉ tấc gang,
Mà cách nhau trời vực;
Miệng nói chẳng nên lời,
Chỉ còn nhờ khóe mắt;
Chưa nói lệ tuôn trào,
Tình cảnh ái ngại thật
(Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng)


Cách chia hai thế giới: bên trong - nhà lao, bên ngoài - ngoài lao; cách chia tình cảm vợ chồng là cái song sắt lạnh lùng. Không nói nên lời, chỉ còn nói bằng khóe mắt. Mắt cũng mờ đi vì những giọt lệ. Một lời bình ở cuối bài: “Tình cảnh ái ngại thật” là tấm lòng cảm thông, xót xa cho hai vợ chồng người bạn tù, trong cảnh huống ấy, nhà thơ hướng tình cảm của mình về phía người vợ khốn khổ nọ. Thế cho nên bài thơ mới có tiêu đề: Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng.

Yêu thương và thông cảm, Bác Hồ cũng rất trân trọng, quý mến những người phụ nữ. Phải đặt vấn đề này trên quan điểm lịch sử là nhà nho phong kiến xưa rất coi thường phụ nữ. Bác Hồ rất hiểu Nho học, Người tiếp thu cái sâu sắc tinh hoa của Nho giáo nhưng biết vượt lên trên cái hạn chế của Đạo Khổng để tạo ra một cái ứng xử của riêng mình. Đấy là ứng xử văn hóa Hồ Chí Minh.
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
(Chiều tối)


Chúng tôi không làm nhiệm vụ phân tích bài thơ vì đã có quá nhiều người nói về cái hay cái đẹp của tư tưởng và hình tượng thơ mà chỉ nói ý hiểu cá nhân. Theo kiểu văn hẹp của mình tôi thấy trước bài thơ này hình tượng “sơn thôn thiếu nữ” đã xuất hiện rất nhiều trong thơ nhưng chỉ đến Hồ Chí Minh hình tượng “sơn thôn thiếu nữ ma bao túc” (Cô em xóm núi xay ngô tối) mới đưa vào thơ và lại là một hình tượng hay, đột xuất và độc đáo. Nhìn vào văn bản bài thơ ta thấy hai câu đầu đậm đà chất cổ điển, có buồn cũng buồn rất cổ điển. Trên cái nền không gian buồn vắng đột ngột xuất hiện một hình tượng thiếu nữ khỏe khoắn và lò than rực hồng đã lái ý thơ hướng về cuộc sống ấm áp, đầy ánh sáng.

Chúng tôi không cho rằng bài thơ Cảm ơn người tặng cam Bác Hồ viết chỉ để nói với một người - người tặng cam, mà cao hơn là để nói về chuyện ứng xử người với người, thế hệ sau với thế hệ trước, và đặc biệt là nhắc nhở mọi người biết trân trọng phụ nữ:
Cảm ơn bà biếu gói cam
Nhận thì không đúng, từ làm sao đây
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai


Lời bài thơ là lời cảm ơn cũng là lời nhắc nhở “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” và chắc chắn một niềm tin: Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai. Vượt lên trên cái tầm nội dung câu chuyện nghĩa lý ở đời bài thơ vươn tới ý nghĩa đạo lý sâu sắc và một quy luật phổ quát: con người nhân nghĩa thủy chung, biết lẽ phải sẽ luôn gặp hạnh phúc.

Và Bác Hồ là một trong những người thể hiện đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” bằng cách ghi nhận công lao của các bậc phụ nữ tiên kiệt anh hùng đã góp phần làm nên lịch sử:
Việt Nam phụ nữ đời đời
Nhiều người vì nước, vì nòi hy sinh
Ngàn thu vang tiếng bà Trưng,
Ra tay cứu nước, cứu dân đến cùng
Bà Triệu - Ẩu thật anh hùng,
Cưỡi voi đánh giặc vẫy vùng bốn phương
(Phụ nữ)

Người khích lệ động viên tinh thần của chị em phụ nữ đã cùng góp máu xương cho sự nghiệp cách mạng đòi lại độc lập tự do từ tay giặc Pháp:
Mấy năm cách mạng khẩn trương,
Chị em phụ nữ thường thường tham gia
Mấy phen tranh đấu xông pha.
Lòng vàng gan sắt nào đà kém ai?
(Phụ nữ)


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại Bác Hồ có bài thơ Khen 11 cháu dân quân gái thành phố Huế:
Dõng dạc tay cầm khẩu súng trường,
Khôn ngoan dàn trận khắp trong phường.
Bác khen các cháu dân quân gái,
Đánh giặc Hoa Kỳ phải nát xương.
3-1968

Lời thơ hết sức giản dị nhưng đã làm nổi bật một hình tượng anh hùng, ở tư thế bản lĩnh, ở tư duy trí tuệ (khôn ngoan dàn trận). Bài thơ là một cấu trúc đối lập, đối lập về số lượng (11 cháu dân quân gái) với vũ khí trang bị thô sơ (súng trường) với “giặc Hoa Kỳ” đông quân, trang bị tối tân hiện đại. Thế mà “giặc Hoa Kỳ phải nát xương”! Bài thơ không chỉ là lời khen động viên, cổ vũ mà còn là niềm tin chiến thắng, cao hơn là tư tưởng: phụ nữ cũng rất anh hùng, phụ nữ Việt Nam ta đúng là “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.


Rõ ràng tư tưởng của Bác Hồ về người phụ nữ là hết sức tiến bộ, nhân văn, thậm chí tư tưởng ấy đã đi trước thời đại. Nhớ lại, từ năm 1941 Người đã thể hiện tư tưởng ấy:
Chị em cả trẻ đến già
Cùng nhau đoàn kết để mà đấu tranh
Đưa nhau vào hội Việt Minh,
Trước giúp nước, sau giúp mình mới nên.
Làm cho thiên hạ biết tên
Làm cho rõ mặt cháu Tiên, con Rồng
(Phụ nữ)

Cội nguồn của tư tưởng ấy, xét đến cùng chính là từ tình yêu thương con người cần lao. Đúng vậy, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh phải bắt đầu từ tình yêu con người của Bác.


Khép lại bài viết chúng tôi mượn lời của Bác để làm rõ hơn sự chứng minh ý hiểu của mình về những bài thơ của Người viết về phụ nữ:
“Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội, nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người” (1)
“Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ”(2).

(Sưu tầm)