Thứ Hai, 8 tháng 2, 2010

LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CÁCH MẠNG (1930-1945)

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, mở đầu một thời kỳ mới, vô cùng oanh liệt trong lịch sử dân tộc. Lúc này, dù đang hoạt động ở nước ngoài, trên cương vị là người đại diện Ban Phương Đông, Nguyễn Ái Quốc giữ liên lạc chặt chẽ với Quốc tế Cộng sản, đồng thời theo dõi chặt chẽ phong trào cách mạng trong nước. Ngày 27-2-1930, Người viết thư gửi đại diện Đảng Cộng sản Pháp ở Quốc tế Cộng sản, báo tin Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập, đề nghị công bố trên báo Nhân đạo (L'Humanité) và tập san Thư tín quốc tế (Inprecor)Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người cũng yêu cầu Đảng Cộng sản Pháp cho biết tên những con tàu chạy tuyến đường Pháp - Viễn Đông, có các đồng chí cộng sản Pháp làm việc trên đó để bắt liên lạc. Trong thư, Nguyễn Ái Quốc viết: Chưa thể về nước, không tham gia Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, vì đang chịu “một cái án tử hình vắng mặt”.

Ngày 28-2-1930, Người viết thư gửi các đồng chí Liên Xô yêu cầu cung cấp tài liệu để Người viết một cuốn sách tuyên truyền về nước Nga Xôviết với nhan đề: Những kỷ niệm về cuộc du lịch của tôi. Khoảng cuối năm, cuốn Nhật ký chìm tàu của Người đã xuất hiện ở Việt Nam, sau đó được in lại, phổ biến rộng rãi trong cao trào cách mạng Xôviết Nghệ Tĩnh. Nhân dịp đoàn đại biểu Việt Nam sắp đến Liên Xô dự Đại hội Công hội lần thứ V, ngày 5-9-1930, Người viết thư gửi các học sinh Việt Nam ở Liên Xô, nhắc nhở việc xây dựng khối đoàn kết giữa những học sinh ở Liên Xô với các đại biểu, nhằm “chớ để người ta trông thấy sự phân biệt trí thức và vô sản”(1).

Cuối 1929, Trần Phú rời Liên Xô trở về nước hoạt động và ngày 8-2-1930 đồng chí đã về tới Sài Gòn. Đầu tháng 4-1930, Trần Phú gặp Nguyễn Ái Quốc tại Hồng Kông, báo cáo với Người về nội dung Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (1928), về nhóm học sinh Việt Nam tại Liên Xô và tình hình Liên Xô hiện tại. Trong cuộc gặp đó, Nguyễn Ái Quốc cũng thông báo với Trần Phú kết quả Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên cương vị là đại diện Ban Phương Đông, Người phân công Trần Phú, Ngô Đức Trì về nước hoạt động và gửi thư giới thiệu hai người với Ban Chấp hành Trung ương lâm thời trong nước.

Theo ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản, cuối tháng 4-1930, Nguyễn Ái Quốc đến Xiêm và Malaixia. Đến Đông Bắc Xiêm (Thái Lan ngày nay), Người báo tin cho một số đồng chí ở đây biết các nhóm cộng sản ở Việt Nam đã thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian khoảng chừng một tháng ở đây, Người còn làm những nhiệm vụ do Quốc tế Cộng sản giao. Cuối tháng 4, Người đến Malaixia làm nhiệm vụ và sau khi thoát khỏi cuộc vây bắt ở Xinhgapo (lúc đó thuộc Malaixia), vào cuối tháng 5-1930, Người quay trở lại Hồng Kông. Tại đây Người đã nhận được tin tức về phong trào cách mạng trong nước, cùng những báo cáo về hoạt động của Đảng trong quần chúng công nhân, binh lính và bà con người Việt Nam ở Thượng Hải.

Tại Thượng Hải, Nguyễn Ái Quốc họp với Nguyễn Lương Bằng, Hồ Tùng Mậu, Đỗ Ngọc Du và Lưu Quốc Long (2),... hướng dẫn họ cách vận động cách mạng trong binh lính, làm báo Kèn gọi lính. Người còn giới thiệu đồng chí Nguyễn Lương Bằng với đồng chí Thái Sướng, đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, để được giúp đỡ trong công tác binh vận ở Thượng Hải. Vào cuối tháng 9-1930, Nguyễn Ái Quốc báo cáo với Quốc tế Cộng sản về việc cố gắng thu xếp “một cuộc họp của Trung ương để quyết định mọi việc” (3) và đến tháng 10-1930, Người tham dự Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Hồng Kông. Hội nghị quyết định thông qua: Dự thảo Luận cương cách mạng tư sản dân quyền do Trần Phú soạn thảo, đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương, bầu Trần Phú làm Tổng Bí thư của Đảng.

Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cao trào đấu tranh cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng phát triển mạnh, mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh. Phong trào bùng nổ từ tháng 5, nhưng phát triển đến đỉnh cao ở Nghệ An, Hà Tĩnh vào các tháng 9, 10 và kéo dài sang đầu năm 1931. Trước sự phát triển của phong trào, Nguyễn Ái Quốc đã gửi thư, báo cáo cho Quốc tế Cộng sản và Quốc tế Nông dân (4), đề nghị giúp đỡ các nạn nhân bị khủng bố, đồng thời nhấn mạnh việc phải làm cho nông dân hiểu rõ: Cần tiến hành kết hợp đấu tranh kinh tế với chính trị, làm cách mạng ruộng đất “chứ không phải để tiến hành một cuộc khởi nghĩa địa phương” (5).

Nhấn mạnh việc phải ra sức củng cố và phát triển đảng, ngày 20-4-1931, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng, yêu cầu phải tăng cường phát triển lực lượng của Đảng cho đều khắp cả Bắc - Trung - Nam, chú trọng phát triển các tổ chức Công hội, Nông hội, Mặt trận... và gửi thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương, phê bình trong cách khai hội, cách thảo luận, trong vấn đề công tác và vấn đề chậm đổi tên đảng tại Hội nghị xứ uỷ Trung và Bắc kỳ. Người yêu cầu:

"Tất cả mọi đảng viên và tất cả các chi bộ phải thảo luận Chỉ thị của Quốc tế thứ ba và Nghị quyết của Trung ương, rồi phải ra Nghị quyết về những Nghị quyết và Chỉ thị nói trên... Có làm như thế thì mới có thể nâng cao được trình độ đảng viên, tất cả Chỉ thị và Nghị quyết mới được thi hành, tư tưởng và hành động của đảng viên mới thống nhất” (6).

Đồng thời Người thẳng thắn phê bình Đảng còn kém đường bí mật công tác, nhắc nhở Đảng phải tìm cách bảo vệ cán bộ, không để địch tìm cách “túm mòn” hết cán bộ và phải biết tự đặt câu hỏi “Vì sao mà bị lộ để suy nghĩ, và tìm cách sửa đổi”. Trong các bức thư gửi Quốc tế Cộng sản và các bài viết kêu gọi ủng hộ phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là Xôviết Nghệ Tĩnh, Nguyễn Ái Quốc đã giới thiệu tóm tắt tình hình địa lý, nhân văn, hành chính và phong trào cách mạng của hai tỉnh, tố cáo những thủ đoạn đàn áp dã man của thực dân Pháp và phong kiến Nam triều. Không chỉ làm hết sức mình để kêu gọi các tổ chức quốc tế, các đảng anh em có những hình thức đấu tranh phối hợp ủng hộ, giúp đỡ phong trào Xôviết Nghệ Tĩnh về mọi mặt, góp phần ngăn chặn sự đàn áp đẫm máu của bọn đế quốc đối với phong trào, mà Người còn nhấn mạnh: "Nghệ - Tĩnh thật xứng đáng với danh hiệu "đỏ" (7).

Thông qua những báo cáo của Người, Quốc tế Cộng sản nắm được tình hình phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam. Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đánh giá cao cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân ta, (đặc biệt là Xôviết Nghệ Tĩnh) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng thời đánh giá công lao, uy tín của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ này. Tại phiên họp ngày 11-4-1931, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản nhất trí quyết nghị: Công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương từ nay là một chi bộ độc lập thuộc Quốc tế Cộng sản.

Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng Đông Dương và sự cấu kết của bọn đế quốc trong việc bắt bớ, giam cầm các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam ở trong và ngoài nước (Trần Phú, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Lương Bằng... bị bắt cuối tháng 3-1931), Nguyễn Ái Quốc báo cáo về Văn phòng Ban Phương Đông, đề nghị được chuyển công tác lên Thượng Hải khi tình hình diễn biến ngày càng xấu đi, song đề nghị chưa kịp thực hiện, thì ngày 6-6-1931, Nguyễn Ái Quốc (tên gọi khi đó là Tống Văn Sơ) bị bắt tại số nhà 186, phố Tam Kung (8) (Cửu Long, Hồng Kông). Ngày 15-6-1931, Hile Nulen, người phụ trách Văn phòng chi nhánh Ban Phương Đông tại Thượng Hải cũng bị sa lưới kẻ thù.

Trước sự kiện Nguyễn Ái Quốc bị bắt, nhiều tờ báo tại Pháp đưa tin: "Người Anh đã bắt giữ ở Thượng Hải, nhà cách mạng An Nam Nguyễn Ái Quốc” (báo Nhân đạo (L' Humanité), 1931)", "Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Trung Quốc”, (báo Bạo động tại Pari, 15-8-1931)... Các tổ chức cách mạng của ta ở trong nước qua tờ Tin nhanh thuộc địa (La Dépêche Coloniale)Dư luận (Opinion) cũng đã biết được tin dữ này. Thực dân Pháp rất hí hửng, chúng tâng bốc nhau và tâng bốc đế quốc Anh khi bắt được Nguyễn Ái Quốc. Anh và Pháp có kế hoạch, mặc cả trong việc giam giữ, dẫn độ không trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc, vì theo Toàn quyền R. Rôbanh (R. Robin), thì việc “trả lại tự do cho một người cực kỳ hăng hái và nguy hiểm này là một việc mạo hiểm cần phải tránh bằng bất cứ giá nào” (9).

Tuy nhiên, đế quốc Anh và thực dân Pháp đã không thể thực hiện được kế hoạch đó. Biết Nguyễn Ái Quốc bị bắt, Quốc tế Cộng sản thông qua Quốc tế cứu tế đỏ đã yêu cầu luật sư Lôdơbi (F.H. Loseby), một luật sư tiến bộ người Anh khi đó là Chủ tịch công ty luật gia ở Hồng Kông giúp đỡ. Thời gian Tống Văn Sơ bị giam giữ cũng đồng thời là khoảng thời gian nước rút của cuộc đua giữa một bên là gia đình luật sư và những người bảo vệ Tống Văn Sơ, một bên khác là sự cấu kết, có điều kiện của mật thám Anh và Pháp muốn hãm hại Người. Dưới sức ép của dư luận, của những phương tiện thông tin báo chí, luật sư Lôdơbi đã đưa vụ án Tống Văn Sơ ra xử trước Pháp viện tối cao. Lần đầu tiên trong lịch sử thuộc địa, Toà án tối cao phải xét xử một bản án chính trị. Tính chất đặc biệt của vụ án, sự giúp đỡ cùng tài trí của luật sư và người cộng sự, sự thông minh và nhất quán trong từng câu trả lời của Tống Văn Sơ đã buộc toà án phải xét xử Người một cách công khai. Kéo dài tới 9 phiên, phiên thứ nhất (1-8-1931), diễn ra trong không khí căng thẳng, quyết liệt, đến phiên cuối cùng (19-9-1931), nhưng việc đòi trả tự do cho Tống Văn Sơ không được giải quyết dứt điểm. Luật sư cùng người cộng sự đã quyết định chống án lên Viện Cơ mật Hoàng gia Anh. Tiền án phí và những thủ tục bắt buộc cho việc kháng án đã được luật sư lo liệu đầy đủ. Hai người bạn của ông là luật sư Đenit Noen Pơrit (Denis Noel Pritt) và Stafo Crip (Stafford Cripps) đã nhận lời giúp đỡ Tống Văn Sơ. Nhờ sự nỗ lực của luật sư Stafo Crip, Toà án Viện Cơ mật Hoàng gia Anh đã đồng ý trả tự do cho Tống Văn Sơ. Song khi đi đến Xinhgapo, lấy cớ Tống Văn Sơ đi vào thuộc địa không có giấy phép, Người lại bị bắt giam.

Một lần nữa gia đình luật sư Lôdơbi lại bênh vực và cứu Tống Văn Sơ ra khỏi nhà tù. Kế hoạch di chuyển và bí mật tổ chức cho Tống Văn Sơ trốn đã được vạch ra. Sau một thời gian tạm lánh bí mật trong vai một nhà buôn lớn đi nghỉ, khi thì ở tạm trong Ký túc xá Thanh niên Thiên Chúa giáo Trung Hoa (Chinese YMCA), số 23 phố Oatéclô (Waterloo), Cửu Long, có khi ở ngay trong nhà của luật sư Lôdơbi, ngày 22-1-1933, với sự giúp đỡ của gia đình luật sư cùng những người bạn và Thống đốc Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc - Tống Văn Sơ đã bí mật rời Hồng Kông đi Hạ Môn. Đến Hạ Môn (tỉnh Phúc Kiến), Nguyễn Ái Quốc dừng lại ăn Tết âm lịch.

Khoảng mùa hè năm 1933, khi tình hình về vụ án Tống Văn Sơ có dấu hiệu lắng xuống, Nguyễn Ái Quốc quyết định rời Hạ Môn lên Thượng Hải, tìm cách bắt liên lạc với những đồng chí của mình. Cũng vào mùa hè năm 1933, được bà Tống Khánh Linh giúp đỡ, Nguyễn Ái Quốc gặp Pôn Vayăng Cutuyariê “trong chuyến anh sang Viễn Đông với tư cách đại biểu và người tổ chức Hội nghị vì hoà bình và chống chiến tranh đế quốc” (10). Nhờ đồng chí Pôn Vayăng Cutuyariê, Người chắp được liên lạc với đoàn thể. Vượt qua những tháng ngày đầy sóng gió, mùa xuân 1934, Nguyễn Ái Quốc rời Thượng Hải đi Vlađivôxtốc (Liên Xô), trở về với quê hương của Cách mạng Tháng Mười. Tháng 6-1934, sau một thời gian dừng lại Vlađivôxtốc để hoàn thành thủ tục nhập cảnh vào Liên Xô, vượt đường xe lửa xuyên Xibia, Nguyễn Ái Quốc trở lại Mátxcơva. Người muốn bắt tay ngay vào công việc, nhưng các đồng chí lãnh đạo Quốc tế Cộng sản đề nghị Người đi an dưỡng một thời gian để phục hồi sức khoẻ. Tại nơi nghỉ an dưỡng ở Xôchi, trên bờ biển Đen, Nguyễn Ái Quốc viết thư nhờ các đồng chí ở Mátxcơva gửi ngay sách báo mới, để Người vừa nắm được những thông tin về tình hình cách mạng trong nước và thế giới trong mấy năm qua, vừa tập luyện phục hồi sức khoẻ.

Tháng 10-1934, Nguyễn Ái Quốc vào học Trường Quốc tế Lênin, nơi bồi dưỡng lý luận dành riêng cho cán bộ các đảng anh em. Quyết định của Ban kiểm tra tư cách học viên của nhà trường ghi: “Nhận đồng chí Lin thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương vào Trường Quốc tế Lênin, số hiệu 375, niên khoá 1934-1935” (11), kèm theo Quyết định số 45 do Phó Giám đốc trường là Lidốpxki và Chánh văn phòng Makinnhe ký. Tại đây, Người học đầy đủ các môn lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, với phương pháp học tập chủ yếu là tự nghiên cứu và thảo luận, kết hợp đi khảo sát thực tế. Được học tập tại trường, nhưng Nguyễn Ái Quốc không quên trách nhiệm bồi dưỡng lý luận cho những cán bộ, đảng viên ở trong nước. Trong bức thư ngày 16-1-1935, gửi cho Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản, Người nêu rõ tình trạng thiếu lý luận cách mạng của đại đa số cán bộ Đảng Cộng sản Đông Dương, Trung Quốc, Thái Lan... và những vấp váp, sai lầm của họ do tình trạng thiếu lý luận gây nên. Qua đó, Người yêu cầu Ban Phương Đông:

"Phải giúp đỡ các đồng chí của chúng ta khắc phục những khó khăn ấy bằng cách tạo điều kiện cho các đồng chí tiếp thụ được những kiến thức sơ đẳng nhất mà mỗi chiến sĩ đều phải có" (12).

Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc cũng đề nghị cho xuất bản những cuốn sách nhỏ "đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu với quần chúng", với các nội dung vềTuyên ngôn Đảng Cộng sản, Đảng Cộng sản và tổ chức của Đảng, lịch sử Quốc tế Cộng sản, lịch sử các tổ chức Quốc tế Cộng sản như Thanh niên, Công hội, Nông hội,... để giúp các cán bộ, đảng viên chấm dứt tình trạng lạc hậu về lý luận, tránh được những sai lầm, thất bại đau đớn.

Nguyễn Ái Quốc được mời tham dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản với tư cách là đại biểu tư vấn, với Thẻ dự Đại hội số 154, ghi tên Lin, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, đồng chí Tổng Bí thư Quốc tế Cộng sản G. Đimitơrốp báo cáo về nguy cơ một cuộc tiến công của chủ nghĩa phátxít và những nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản, nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa và nửa thuộc địa, cùng nhiều nội dung khác. Đại hội cũng đã thông qua Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản năm 1931, chính thức công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một phân bộ của Quốc tế Cộng sản, và bầu đồng chí Lê Hồng Phong vào Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Những nghị quyết của đại hội là sự chuyển hướng có ý nghĩa quan trọng với phong trào cách mạng thế giới nói chung và phong trào cách mạng Việt Nam nói riêng, đặc biệt là vấn đề phải hình thành cho được một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống đế quốc, đòi dân chủ, cơm áo, hoà bình, khắc phục tư tưởng tả khuynh, hẹp hòi của Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản, năm 1928.

Sau đại hội, Nguyễn Ái Quốc dặn đồng chí Lê Hồng Phong khẩn trương thu xếp công việc, về nước để truyền đạt cho Trung ương Đảng ta những nghị quyết của Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, để từ đó điều chỉnh những nghị quyết của Đại hội Ma Cao, khắc phục tư tưởng tả khuynh hẹp hòi, bảo thủ; đề phòng tư tưởng hữu khuynh, thoả hiệp vô nguyên tắc trong khi hợp tác với các lực lượng khác mà xa rời mục tiêu chống đế quốc và phong kiến. Mùa hè 1936, cùng với việc chuẩn bị cho các đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn về nước, Người đã căn dặn và nhấn mạnh việc hai đồng chí nhất định phải chuyển đến đồng chí Lê Hồng Phong ba ý kiến quan trọng sau:

a. Ban Chấp hành Trung ương cần sớm chuyển về trong nước để chỉ đạo phong trào.

b. Phải củng cố sự đoàn kết vững chắc trong đảng, giữa bộ phận trong nước và nước ngoài, kiên quyết không được thoả hiệp với bọn Tờrốtxkít.

c. Thành lập cho được Mặt trận dân tộc dân chủ, thu hút mọi lực lượng yêu nước tán thành cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ nhưng không được hy sinh quyền lợi của Đảng và giai cấp.

Kết thúc khoá học tại Trường Quốc tế Lênin, Người được nhận vào công tác tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa ở nhà số 25, đại lộ Tvécxkaia, Mátxcơva. Cuối năm 1936 (13), Người trúng tuyển vào lớp nghiên cứu sinh, ngành lịch sử của Viện. Giữa năm 1937, Người dự kỳ thi học kỳ I của lớp nghiên cứu sinh đạt kết quả tất cả các môn học, trong đó có môn đạt điểm xuất sắc. Tuy nhiên, khi Chiến tranh thế giới thứ hai ngày một lan rộng, lò lửa chiến tranh ở khu vực Thái Bình Dương xuất hiện, Nguyễn Ái Quốc không thể yên tâm ngồi học để hoàn thành luận án, Người nóng lòng được trở về nước hoạt động.

Để thực hiện nguyện vọng của mình, ngày 6-6-1938, Người (ký tên Lin) gửi thư cho Quốc tế Cộng sản bày tỏ nguyện vọng về nước hoạt động. Nữ đồng chí Vaxiliêva, Trưởng khoa Phương Đông, đặc trách khu vực Đông Dương của Ban Phương Đông, Quốc tế Cộng sản đã ủng hộ nguyện vọng của Nguyễn Ái Quốc và viết thư đề nghị Ban Bí thư Quốc tế Cộng sản ủng hộ nguyện vọng của Người, trong đó ghi rõ:

“Đồng chí Lin là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, là người có uy tín lớn trong Đảng Cộng sản Đông Dương, nay từ đây về thì Đảng sẽ chăm chú lắng nghe những ý kiến của đồng chí ấy” (14).

Quốc tế Cộng sản đã tổ chức một cuộc họp bí mật (15), trong đó có sự tham gia của các đồng chí G. Đimitrốp, Tổng Bí thư Quốc tế Cộng sản và đồng chí Vaxin Côlarốp ra chỉ thị về công tác cho Nguyễn Ái Quốc. Sau đó, Quốc tế Cộng sản đã ra Quyết định số 60 (mật): "Sinh viên mang số hiệu 19 (Lin) từ ngày 29-9-1938 đã rời khỏi biên chế của Viện (về nước)".

Đầu tháng 10-1938, Người đáp xe lửa từ Mátxcơva đi về phương Đông. Vượt qua biên giới Xô - Trung, Nguyễn Ái Quốc đến Urumsi (16) rồi đi Lan Châu (17). Tại đây, Người được Văn phòng Bát lộ quân chuẩn bị cho một chứng minh thư Trung Quốc, mang tên Hồ Quang, cấp bậc thiếu tá.

Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Quốc trong bối cảnh tình hình có nhiều thay đổi: Đảng Cộng sản Trung Quốc lập lại Mặt trận thống nhất, hợp tác với Quốc dân Đảng cùng chống Nhật. Từ Lan Châu, Người đã đi Tây An theo đường dây của Đảng Cộng sản Trung Quốc, sau đó đến Diên An - căn cứ đầu não của 18 vạn quân cách mạng và 9 khu giải phóng ở Hoa Bắc và Hoa Trung. Sau hai tuần ở Diên An, Nguyễn Ái Quốc quay lại Tây An, đi xuống Quảng Tây, tìm cách về gần Tổ quốc. Dừng chân tại Quế Lâm (Quảng Tây), Nguyễn Ái Quốc, với bí danh Hồ Quang, làm việc tại Văn phòng Bát lộ quân (đóng ở 96, đường Trung Sơn Bắc, Quế Lâm), đồng thời tìm cách liên lạc với trong nước.

Trong thời gian này, Người viết nhiều báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, như: Về những chỉ thị mà tôi có thể nhớ và truyền đạt lại (năm 1939); Báo cáo gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản (tháng 7-1939), báo cáo về tình hình hiện tại của mình, về tình hình chính trị ở Đông Dương từ năm 1936-1938; Báo cáo gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản (tháng 7-1940), nêu những thông tin về địa lý, dân tộc, đồng thời khẳng định chỉ có Đảng Cộng sản là chính đảng chân chính, có tính chất toàn quốc và tính chất quần chúng", thông báo về tình hình của bản thân và tình hình chính trị ở Đông Dương.

Từ tháng 2-1939, Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài dưới tiêu đề: "Thư từ Trung Quốc", tập trung nêu lên họa xâm lược của bọn phátxít Nhật ở Trung Quốc và các quốc gia châu Á, đồng thời nêu rõ những hoạt động phá hoại của bọn Tờrốtxkít ở Trung Quốc, qua đó gián tiếp báo động về những hoạt động của chúng ở Việt Nam, nhằm nhắc nhở, giáo dục cán bộ, đảng viên nâng cao tinh thần cảnh giác, không thoả hiệp với chúng trong bất cứ vấn đề nào. Cùng với những bài báo, Nguyễn Ái Quốc còn gửi thư cho Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, trực tiếp truyền đạt tinh thần Nghị quyết Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, nêu những ý kiến về đường lối, chủ trương của Đảng trong thời kỳ thực hiện Mặt trận dân chủ Đông Dương:

- Về khẩu hiệu đấu tranh: Lúc này Đảng không nên đưa ra những đòi hỏi quá cao, như độc lập dân tộc mà chỉ nên đòi các quyền dân chủ, tự do hội họp, tự do tổ chức,... đấu tranh để Đảng được hoạt động hợp pháp.

- Về công tác mặt trận: Phải ra sức tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, bao gồm cả những người Pháp tiến bộ ở Đông Dương và giai cấp tư sản dân tộc. “Tránh hết sức để họ ở ngoài Mặt trận, vì như thế là đẩy họ rơi vào tay bọn phản động, là tăng thêm lực lượng cho chúng”.

- Về vai trò lãnh đạo của Đảng: "Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.

- Về giáo dục nội bộ: “Đảng phải đấu tranh không nhân nhượng chống tư tưởng bè phái, và phải tổ chức học tập có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin để nâng cao trình độ văn hoá và chính trị cho các đảng viên. Phải giúp đỡ cán bộ không đảng phái nâng cao trình độ”.

- Về quan hệ quốc tế: “Phải duy trì quan hệ chặt chẽ với Đảng Cộng sản Pháp”, “với Mặt trận nhân dân Pháp”, vì mặt trận này “có thể giúp rất nhiều cho ta” (18).

Sau đó, Người báo cáo Quốc tế Cộng sản những ý kiến về đường lối mà Người đã truyền đạt cho Trung ương Đảng ta và tình hình công việc của Người trong 9 tháng qua như: làm phiên dịch tin tức, viết sách nói vềKhu vực đặc biệt, và một số bài báo phản ánh những biến cố chính trị, quân sự ở Trung Quốc.

Tháng 2-1939, Nguyễn Ái Quốc rời Quế Lâm, tham gia lớp huấn luyện du kích tại Nam Nhạc thuộc Hành Dương, tỉnh Hồ Nam. Sau 7 tháng ở Hồ Nam, khoảng sau ngày 20- 9-1939, Nguyễn Ái Quốc rời Hồ Nam trở về Quế Lâm và đi Long Châu (một huyện nằm ở biên giới Việt - Trung, tỉnh Quảng Tây) để bắt liên lạc với người từ trong nước sang, nhưng không gặp được. Không bắt được liên lạc với đại diện của Trung ương, trong khoảng thời gian từ tháng 10-1939 đến cuối tháng 11-1939, Người di chuyển liên tục (Quế Lâm - Liễu Châu- Long Châu (19)- Quý Dương (20) - Côn Minh (21) - Trùng Khánh). Tại Trùng Khánh, Nguyễn Ái Quốc thường đến Văn phòng Bát lộ quân đóng tại thôn Hồng Nham và gặp gỡ Chu Ân Lai.

Vào khoảng nửa cuối tháng 11-1939, Nguyễn Ái Quốc tìm đường đi Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam. Tại Côn Minh, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương đã được lập lại do đồng chí Phùng Chí Kiên phụ trách. Tin tức từ trong nước đến Côn Minh rất đều đặn. Tại Côn Minh, nhờ sự giúp đỡ của các đồng chí trong Tỉnh ủy Vân Nam, Người bắt được liên lạc với Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng ta. Cuối tháng 2-1940, Nguyễn Ái Quốc gặp đồng chí Phùng Chí Kiên tại nhà ông Tống Minh Phương, số 77, đường Kim Bích, thành phố Côn Minh.

Trao đổi với tổ chức đảng ở Côn Minh, Nguyễn Ái Quốc đề nghị đổi tên tờ Truyền tin thành Đ.T. Tháng 4-1940, Người đã cùng đồng chí Phùng Chí Kiên đi thăm một số cơ sở cách mạng dọc tuyến đường xe lửa Côn Minh - Hà Khẩu. Lúc này, Người sử dụng giấy giới thiệu của Việt Nam hưởng ứng Trung Quốc kháng địch hậu viện hội, cho hoạt động hợp pháp để đi Nghi Lương, Khai Viễn, Chỉ Thôn. Đầu tháng 6-1940, Nguyễn Ái Quốc với bí danh đồng chí Vương đến Thuý Hồ gặp các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp từ trong nước sang. Sau đó ít ngày, với bí danh Hồ Quang, Người giới thiệu các đồng chí Cao Hồng Lĩnh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đi học chính trị dài hạn ở Diên An, nhưng sau đó kịp thời hoãn lại vì tình hình thế giới có nhiều biến động. Ở Côn Minh, nghe tin phátxít Đức tấn công Pháp (15-6-1940), Chính phủ Pêtanh chấp nhận mọi điều kiện đầu hàng (22-6-1940), tạo ra những điều kiện mới cho sự phát triển của phong trào cách mạng, Nguyễn Ái Quốc quyết định triệu tập cuộc họp tại trụ sở báo Đ.T. Tại cuộc họp, Người nhấn mạnh:

“Đây là thời cơ thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước để tranh thủ nắm thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng" (22).

Hội nghị tán thành ý kiến của Người và quyết định: Tìm mọi cách về nước.

Cuối tháng 6-1940, Người cử đồng chí Trần Văn Hinh đi Diên An để thiết lập mối quan hệ với quốc tế. Còn Người đi Trùng Khánh gặp Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cuối tháng 7-1940, Người trở lại Côn Minh, định trở về nước theo hướng Côn Minh - Lào Cai nhưng không thực hiện được. Trong khi đó, tháng 9-1940, Nhật tiến hành xâm lược nước ta, thực dân Pháp hoàn toàn không kháng cự, dâng nước ta cho Nhật. Từ đây, nhân dân ta một cổ phải chịu hai tròng áp bức. Tháng 10-1940, Nguyễn Ái Quốc lại cùng một số đồng chí rời Côn Minh đi Quế Lâm (Quảng Tây) tìm đường trở về nước theo hướng mới. Tại đây, để có danh nghĩa hoạt động, Người cho lập lại Việt Nam độc lập đồng minh - tổ chức chính trị chống đế quốc của người Việt Nam (được phép chính quyền Tưởng Giới Thạch cho thành lập từ năm 1935 tại Nam Kinh), và mời ông Hồ Học Lãm làm Chủ nhiệm Văn phòng hải ngoại của tổ chức.

Trước những biến động của tình hình thế giới, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (tháng 11-1940) và chỉ rõ: “Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lĩnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập” (23). Hội nghị quyết định: Tiếp tục duy trì đội du kích Bắc Sơn, hoãn khởi nghĩa Nam Kỳ, chắp nối liên lạc với Quốc tế Cộng sản và bộ phận hải ngoại của Đảng. Công việc trọng yếu này giao đồng chí Hoàng Văn Thụ phụ trách.

Thời kỳ này, để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam, với bút danh Bình Sơn, Nguyễn Ái Quốc viết 12 bài đăng trên Cứu vong nhật báo (Trung Quốc) như: Ông-trôi-có-mat" (15-11-1940), tố cáo Pháp - Nhật, ca ngợi tình đoàn kết của nhân dân Trung Quốc và Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Nhật - Pháp; Ca dao Việt Nam và cuộc kháng chiến của Trung Quốc (4-12-1940), đưa tin nhân dân Việt Nam chi viện mọi mặt cho cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc; Mắt cá giả ngọc trai (5-12-1940), tố cáo Nhật cho tay chân đóng giả nhân dân Trung Quốc để dò la tin tức... Đồng thời, Người cũng viết nhiều bài tuyên truyền về sự chi viện của nhân dân Việt Nam cho cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc, coi “cứu Trung Quốc là tự cứu mình".

Hạ tuần tháng 12-1940, Nguyễn Ái Quốc cùng một số cán bộ rời Quế Lâm đi xuống Tĩnh Tây (Quảng Tây). Vài ngày sau Tết dương lịch năm 1941, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tại Tân Khư (Tĩnh Tây). Thay mặt Trung ương Đảng, đồng chí báo cáo với Người tình hình trong nước, những công việc đang thực hiện và kế hoạch chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ tám, đồng thời đề nghị Người nên chọn hướng Cao Bằng để về nước. Mấy ngày sau, Người cùng Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phùng Chí Kiên, Đặng Văn Cáp được đồng chí Hoàng Sâm dẫn đường, qua Nậm Bo xuống Nậm Quang (sát biên giới Việt - Trung). Tại Nậm Quang, Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện cho 43 cán bộ cách mạng Việt Nam. Chương trình của lớp học rất thiết thực, với các nội dung cơ bản như: Tình hình quốc tế, trong nước; tổ chức đoàn thể quần chúng; cách thức tổ chức, huấn luyện đấu tranh. Người cũng căn dặn các học viên trong mối liên hệ với dân có 5 điều nên làm và 5 điều nên tránh. Các tài liệu do Người tổ chức biên soạn và giảng dạy, sau đó được in litô thành sách Con đường giải phóng.

Lớp huấn luyện kết thúc vào khoảng giáp Tết âm lịch. Người cùng Lê Quảng Ba, Phùng Chí Kiên, Đặng Văn Cáp, Thế An và Hoàng Văn Lộc cũng chuẩn bị gấp rút về nước. Ngày 1-1 Tết Tân Tỵ (năm 1941), Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí trong đoàn đi chúc Tết nhân dân hai làng Nậm Quang và Ngàn Tấy. Ngày hôm sau 28-1-1941, tức 2-1 Tết, đoàn rời Nậm Quang trở về nước.

Như vậy là, sau gần 30 năm bôn ba tìm đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản thành một lãnh tụ của Đảng Cộng sản Đông Dương, một người chiến sĩ cộng sản quốc tế. Trong những năm tháng gian lao ấy, dù đã từng bị tù đầy trong lao tù đế quốc, nhưng Người vẫn kiên định con đường đã lựa chọn, đã kiên nhẫn chờ đợi để thực hiện khát vọng giải phóng dân tộc Việt Nam và những người bị áp bức. Vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, những trở ngại tưởng chừng như không thể vượt qua nổi, mong ước được trở về nước trực tiếp lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc của Người đã trở thành hiện thực. Ngày 28-1-1941, Người đã trở về Tổ quốc:

“Bao nhiêu năm thương nhớ, đợi chờ. Hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình. Khi bước qua cái bia giới tuyến, lòng Bác vô cùng cảm động” (24).

Vượt qua cột mốc biên giới 108, Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí về đến xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Ở lại nhà ông Lý Quốc Súng (Máy Lỳ) một thời gian ngắn, ngày 8-2-1941, Người bắt đầu sống và làm việc tại hang Cốc Bó, thôn Pác Bó, Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng. Cuối tháng 3-1941, do bị địch lùng sục, Người rời Pác Bó sang Khuổi Nậm. Trong tháng 4-1941, Nguyễn Ái Quốc nhiều lần vượt qua biên giới trở lại Tĩnh Tây và nhận được sự giúp đỡ quý báu của những người dân Trung Quốc. Cuối tháng 4-1941, theo đề nghị của Người, một cuộc hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng được triệu tập, để tổng kết kinh nghiệm tổ chức thí điểm các hội quần chúng như: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc nhằm tiến tới thành lập Mặt trận Việt Minh trong toàn quốc.

Sau một thời gian ngắn chuẩn bị, tháng 5-1941, lấy danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941), với sự tham gia của các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, một số đại biểu Xứ uỷ Bắc Kỳ, Trung Kỳ (Bùi San, Hồ Xuân Lưu) và đại biểu hoạt động ở ngoài nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương tám đã đề cập và làm rõ nhiều vấn đề quan trọng của cách mạng Việt Nam, trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai ngày càng lan rộng.

Từ việc phân tích kỹ tình hình, thế và lực của cách mạng Việt Nam, Hội nghị quyết định “cần phải thay đổi chiến lược”, “phải thay đổi chính sách cách mạng ở Đông Dương cho phù hợp với nguyện vọng của toàn thể nhân dân Đông Dương” và đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Từ việc xác định rõ kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là “phátxít Pháp - Nhật và các lực lượng phản cách mạng tay sai cho chúng”, hội nghị xác định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng Đông Dương, cho nên tập trung vào nhiệm vụ: "Đánh đuổi Pháp - Nhật làm cho xứ Đông Dương độc lập".

Hội nghị nhận định:

“Cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng” (25). "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” (26).

Vì vậy, tiếp tục tinh thần của văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới của Đảng (10-1936), Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939), và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (10-1940), để tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp, hội nghị quyết định tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian... sau này sẽ tiến lên thực hiện đầy đủ chính sách người cày có ruộng. Chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương, hội nghị bàn về vấn đề chính quyền và nêu rõ: "Không nên nói công nông liên hiệp và lập chính quyền Xôviết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ dân chủ cộng hoà" (27), đồng thời nêu khẩu hiệu “thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” v.v.. Kết luận, Hội nghị khẳng định: "Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang" (28). Theo đề nghị của Người, hội nghị đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới, cử đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư và Ban Thường vụ gồm các đồng chí: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ và Hoàng Quốc Việt.

Để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, tranh thủ mọi lực lượng yêu nước có thể tranh thủ, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù, hội nghị quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Minh chính thức ra đời với Tuyên ngônChương trình cụ thể. Để nhấn mạnh mục tiêu giải phóng dân tộc, tất cả tên của các tổ chức quần chúng đều được gọi là Hội Cứu quốc, nhằm thực hiện hai mục tiêu của toàn thể quốc dân:

1- Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập.

2- Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do.

Mười chính sách lớn của Việt Minh về đối nội và đối ngoại, thể hiện trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và ngoại giao, phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân đã góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng ngày càng phát triển rộng rãi.

Nội dung Nghị quyết Trung ương lần thứ tám và sự thay đổi chiến lược cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng trong việc giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và giai cấp, dân tộc và dân chủ trong điều kiện cụ thể của nước ta, chính là sự hoàn chỉnh nội dung các nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 và 7 trước đó. Sự thay đổi chiến lược một cách kịp thời, đầy sáng tạo của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đáp ứng được khát vọng độc lập, tự do của toàn dân tộc, phù hợp với bối cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, thực chất là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường của cách mạng Việt Nam đã được nêu ra trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt từ đầu năm 1930.

Việc hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, thành lập chính thể dân chủ cộng hoà, phù hợp với tình hình mới, thể hiện tư duy độc lập, tự chủ, tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám, dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc và những quyết định tài tình của Người đã trở thành một trong những nhân tố quyết định thành công của công cuộc vận động giải phóng dân tộc trong những năm 1941 - 1945.

Sau hội nghị, ngày 6-6-1941, Nguyễn Ái Quốc viếtKính cáo đồng bào kêu gọi phải đoàn kết lại để đánh đổ bọn đế quốc và Việt gian, đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng. Trong thư, Người nhấn mạnh: Việc cứu nước là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm, và kêu gọi: "Toàn thể đồng bào tiến lên. Đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp, Nhật" (29), và kiến lập chính thể “dân chủ cộng hoà”. Đồng thời, để đẩy mạnh việc tuyên truyền, cổ động quần chúng thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tám, động viên nhân dân tích cực tham gia các hội cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, tích cực xây dựng và phát triển căn cứ địa cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc quyết định xuất bản báoViệt Nam độc lập, gọi tắt là Việt lập. Số 1 của báo ra ngày 1-8-1941, được đánh số 101, với mục đích kế tục sự nghiệp của các tờ báo cách mạng xuất bản trước đó. Từ 1-8-1941 đến Tổng khởi nghĩa Tháng 8-1945, báo ra được 226 số. Sau đó, báo tiếp tục được xuất bản và chuyển thành cơ quan ngôn luận của tỉnh Cao Bằng.

Nội dung của báo tập trung vào các nội dung: Đẩy mạnh việc cổ động, tuyên truyền, tổ chức nhân dân vào các hội cứu quốc của Việt Minh, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù chủ yếu của cách mạng là phátxít Nhật - Pháp và bè lũ tay sai, hướng dẫn cách tổ chức các đội du kích, đội tự vệ, cách vận động binh lính, công tác đào tạo đội ngũ và hướng dẫn phương pháp tự rèn luyện cho cán bộ hội viên. Tuy chỉ in với số lượng vài trăm bản, phát hành trong phạm vi vài ba tỉnh nhưng báo Việt Nam độc lập được quần chúng yêu mến. Với mục đích: “Cốt làm cho dân ta hết ngu hèn, biết các việc, biết đoàn kết, đặng đánh Tây, đánh Nhật, làm cho Việt Nam độc lập, bình đẳng, tự do” (30), báo Việt Nam độc lập đã cùng với nhiều tờ báo cách mạng khác, phát động toàn dân tiến tới Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi.

Trong khoảng thời gian từ giữa tháng 6 đến tháng 11 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc đặc biệt chú ý đến công tác cán bộ và bồi dưỡng cán bộ, mở những lớp huấn luyện ngắn ngày cho cán bộ địa phương, yêu cầu chọn một số thanh niên Cao Bằng gửi đi học lớp vô tuyến điện ở Liễu Châu (Trung Quốc), giao cho Lê Thiết Hùng, Lê Quảng Ba và Hoàng Sâm cùng cộng tác mở lớp huấn luyện quân sự, quyết định tổ chức một đội vũ trang, v.v.. Cũng trong thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc đã biên soạn một số cuốn sách, làm tài liệu phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng:

1. Cách đánh du kích, là một trong những tác phẩm đầu tiên của Người về quân sự. Với 13 chương, cuốn sách nêu những vấn đề có tính thiết thực và cách mạng triệt để. Tác phẩm trình bày kinh nghiệm lịch sử với phân tích lý luận, làm nổi rõ tư tưởng chiến lược quân sự cách mạng là tiến công, đồng thời khẳng định:

“Du kích là đánh úp hay đánh lén, đánh lúc kẻ thù không ngờ, không phòng. Du kích là cách đánh giặc của dân tộc bị áp bức chống đế quốc” (31).

Tác phẩm giới thiệu kinh nghiệm lịch sử và bước đầu nêu lên một số vấn đề về đường lối quân sự chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang. Đây là một tác phẩm kế thừa và phát triển tư tưởng và nghệ thuật quân sự truyền thống của tổ tiên ta, đồng thời thể hiện sự vận dụng sáng tạo lý luận về chiến tranh nhân dân của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

2. Lịch sử nước ta, gồm 236 câu lục bát, tập trung chủ yếu vào lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta, nêu bật truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất và đoàn kết của dân tộc (từ thời Vua Hùng đến năm 1942). Trong tác phẩm này, Hồ Chí Minh rút ra một kết luận có tính nguyên tắc, một bài học lớn về tinh thần đoàn kết, đó là:Dân ta xin nhớ chữ đồng. Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh, và tiên đoán: "Năm 1945 Việt Nam độc lập ". Diễn ca lịch sử này được phổ biến rộng rãi trong nhân dân, nhằm giáo dục và động viên mọi người phát huy truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc, góp phần chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám 1945.

3. Cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô tóm tắt, do Nguyễn Ái Quốc dịch, dùng để làm tài liệu cho hai lớp: Bồi dưỡng về Đảng cho cán bộ tỉnh uỷ Cao Bằng và cán bộ chủ chốt cấp huyện.

Bước sang năm 1942, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn ác liệt. Ở Đông Dương, Pháp đầu hàng, dâng Đông Dương cho Nhật. Chiến tranh đã làm cho mâu thuẫn giữa các phe phái, các lực lượng, đặc biệt là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với bọn phátxít Nhật - Pháp càng thêm gay gắt, thúc đẩy tình thế cách mạng mau chín muồi. Trong bối cảnh đó, ngày 21-12-1941, Trung ương Đảng ra thông báo về cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng. Cùng ngày, trên báo Việt lập, Nguyễn Ái Quốc viết bài Thế giới đại chiến và phận sự của dân ta, nêu hai nhiệm vụ của nhân dân Việt Nam, thực hiện “vườn không nhà trống” và mau mau tổ chức lại. Cuối cùng, Người kêu gọi “Hỡi đồng bào! Cơ hội giải phóng đến rồi, mau mau đoàn kết lại!!!”.

Trong bước chuyển của tình hình, nhận thức được tầm quan trọng của liên minh quốc tế, đặc biệt là sự phối hợp cùng nhân dân Trung Quốc chống Nhật, ngày 13-8-1942, Nguyễn Ái Quốc lên đường sang Trung Quốc. Lấy tên mới Hồ Chí Minh, Người đi Trung Quốc với tư cách là đại biểu của phong trào Việt Minh và đại diện của Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế chống xâm lược.

Ngày 27-8-1942, khi đến phố Túc Vinh (Thiên Bảo, Quảng Tây), Hồ Chí Minh bị bắt với lý do những giấy tờ tuỳ thân của Người đã quá hạn sử dụng. Hơn một năm trời, bị giải qua hơn 30 nhà lao của 13 huyện của tỉnh Quảng Tây, phải trải qua những ngày tháng bị giam cầm thiếu thốn, khổ cực, bệnh tật, Hồ Chí Minh đã viết 133 bài thơ bằng chữ Hán, theo thể thất tuyệt, thất luật, ngũ ngôn và tạp thể, chép trên một loại giấy bản, đóng thành tập, bên ngoài ghi bốn chữ: Ngục trung nhật ký.

Cuốn Nhật ký bằng thơ này đã tái hiện một quãng đời của Hồ Chí Minh trong các nhà ngục của tỉnh Quảng Tây, thể hiện rõ phong thái ung dung, khí phách hào hùng "thân thể ở trong lao, tinh thần ở ngoài lao", đồng thời phản ánh chân thực chế độ nhà tù hà khắc của Tưởng Giới Thạch và một phần bộ mặt thật xã hội Trung Quốc những năm 1942-1943.Ngục trung nhật ký thể hiện tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, tinh thần lạc quan cách mạng và tình cảm nhân đạo cộng sản chủ nghĩa cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là một tác phẩm văn học lớn của một người chiến sĩ cộng sản vĩ đại, được thể hiện bằng ngôn ngữ giản dị mà hàm súc, một bút pháp đa dạng và sáng lấp lánh như một viên ngọc quý trong nền văn học cách mạng Việt Nam. Ngục trung nhật ký gắn với tên tuổi Hồ Chí Minh - nhà văn hoá kiệt xuất trong dân tộc Việt Nam của thế kỷ XX.

Ngày 10-9-1943, Người được trả tự do, nhưng vẫn bị quản chế. Sức khoẻ của Người sau khi ra tù rất yếu, vì vậy, Người đã đặt một kế hoạch và kiên trì tập luyện. Vào khoảng giữa tháng 9-1943, Hồ Chí Minh viết bài thơ Tân xuất ngục học đăng sơn lên mép của một tờQuảng Tây nhật báo, rồi gửi về nước kèm theo một bức thư, báo tin đã được trả tự do, song vẫn bị quản chế với tư cách “cố vấn”, để Đoàn thể ở trong nước cần có sự vận động mạnh giúp Người được trả tự do hoàn toàn. Cuối tháng 10-1943, theo yêu cầu của Trương Phát Khuê, Hồ Chí Minh tham gia một số hoạt động của Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội - tổ chức của người Việt Nam tại Trung Quốc, gồm nhiều đảng phái, được sự hỗ trợ của Đệ tứ chiến khu, do tướng Trương Phát Khuê trực tiếp chỉ đạo. Để tranh thủ uy tín, đức độ và tài năng của Hồ Chí Minh, thực hiện kế hoạch hợp tác với Việt Minh, triển khai "Hoa quân nhập Việt", Trương Phát Khuê đề nghị Hồ Chí Minh hợp tác với Nguyễn Hải Thần - lãnh tụ của Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, để cải tổ lại Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội.

Chủ trương của Đảng ta trong việc hợp tác với tổ chức này được thể hiện rõ trong Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (25 đến 28-2-1943): "Hết sức vận động cho Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội và Việt Nam độc lập Đồng minh" hợp lại làm một, đặng mau tập trung lực lượng cách mạng Việt Nam đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp" (32).

Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh nhận lời tham gia tổ chức, để vừa tranh thủ, lôi kéo những phần tử yêu nước và tiến bộ về phía cách mạng. Cuối tháng 11-1943, Hồ Chí Minh đã chuyển đến ở tại trụ sởTổng bộ Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội tại đường Ngư Phong, thành phố Liễu Châu. Tại đây, Người viết bài cho báoĐồng minh - cơ quan ngôn luận của Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, xuất bản bằng tiếng Việt ở Liễu Châu.

Tại một cuộc họp trù bị của Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, theo ý kiến của Hồ Chí Minh, để đi đến thống nhất, đại hội của Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội sẽ được gọi làĐại hội đại biểu các đoàn thể cách mạng Việt Nam ở hải ngoại. Tham gia Đại hội có đại biểu của Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Phục quốc quân, Đảng Đại Việt,... đại biểu của Quốc dân Đảng Trung Hoa và chính quyền Tưởng Giới Thạch. Tại đại hội, ngày 16-3-1944, Hồ Chí Minh đọc báo cáo: Về tình hình các đảng phái trong nước và chỉ rõ dù có nhiều đảng phái, nhưng đảng có ảnh hưởng nhất, tổ chức chặt chẽ nhất và nổi tiếng nhất là Đảng Cộng sản. Người cũng báo cáo Về tổ chức và hoạt động của phân hội Việt Nam tại đại hội. Sau đó, đại hội đã bầu lại Ban Chấp hành và Ban kiểm tra. Hồ Chí Minh được bầu làm Uỷ viên của Ban Chấp hành. Lợi dụng cương vị này, Người thảo kế hoạch đưa lực lượng thanh niên trong lớp huấn luyện đặc biệt ở Liễu Châu về nước phát triển lực lượng.

Do tranh thủ được sự đồng tình của Trương Phát Khuê, ngày 9-8-1944, Hồ Chí Minh rời Liễu Châu và cuối tháng 9-1944, Người về đến Cao Bằng. Ngay sau khi về nước, nhận thấy các điều kiện cần thiết cho một cuộc khởi nghĩa chưa đến độ chín muồi, Người đã kịp thời hoãn chủ trương phát động chiến tranh du kích của Liên Tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng. Theo Người, trước tình thế mới, cần phải tìm một hình thức thích hợp thì mới có thể đi tới thành công, vì vậy, quyết định kịp thời của Người không chỉ tránh tổn thất cho phong trào cách mạng của ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng, mà còn vạch ra một hướng đi phù hợp, đúng đắn của một phương pháp đấu tranh trong thời điểm then chốt của lịch sử dân tộc.

Trước tình hình thế giới, những điều kiện thuận lợi và khó khăn của cách mạng Việt Nam, tháng 10-1944, Hồ Chí Minh viếtThư gửi đồng bào toàn quốc và dự đoán thời cơ của cách mạng Việt Nam:

"Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!" (33).

Tình thế cách mạng đang chín muồi, cuối tháng 10-1944, Hồ Chí Minh đến kiểm tra Đại đội tự vệ vũ trang (34) chiến đấu Hồng Phong (tên bí mật của châu Hà Quảng). Sau khi phân tích tình hình và cân nhắc những điều kiện, chuẩn bị cho ngày "vùng lên", Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm kết hợp hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, đẩy mạnh phong trào cách mạng, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Người chỉ rõ: Lực lượng vũ trang muốn phát triển, chủ yếu phải dựa vào nhân dân, dựa vào phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Các đoàn thể cách mạng của quần chúng càng được củng cố và phát triển thì càng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang. Theo tinh thần đó, Người quyết định thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và giao đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Mục đích và nguyên tắc tổ chức đội được nêu rõ trong bản chỉ thị thành lập:

"Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền”, “Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam” (35).

Sau một thời gian ngắn chuẩn bị, ngày 22-12-1944,Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại khu rừng Sam Cao (còn gọi là Trần Hưng Đạo), thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, gồm 34 đội viên do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Thực hiện lời căn dặn: "Trận đầu phải thắng" của Người, đội đã lập liên tiếp hai chiến công oanh liệt: hạ đồn Phai Khắt ngày 25-12-1944 và đồn Nà Ngần ngày 26-12-1944, mở đầu truyền thống anh dũng vẻ vang của quân đội ta.

Sự ra đời và những hoạt động của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là một biểu hiện sinh động của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Đây vừa là sự kế thừa, phát triển di sản quân sự truyền thống của cha ông ta trong lịch sử, vừa là sự tiếp thu và vận dụng sáng tạo tư tưởng lý luận quân sự hiện đại của học thuyết Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Thắng lợi mở đầu của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân có ảnh hưởng to lớn đối với phong trào cách mạng cả nước.

Cùng với sự phát triển của phong trào Việt Minh, việc thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và các lực lượng vũ trang tại các địa phương, cùng khí thế quần chúng dâng cao đã làm cho các lực lượng phản động ngày càng hoang mang, lo sợ, tạo ra những thuận lợi mới cho cuộc Tổng khởi nghĩa sắp tới.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr. 40.

2. Anh cả Nguyễn Lương Bằng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 41.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr. 51 - 52.

4. Báo cáo các ngày 29-9-1930, 24-1-1931, 9-2-1931 và 5-11-1930.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 567.

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 75 - 76.

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 71.

8. Theo tài liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh mới sưu tầm và khảo sát thực địa năm 2007, đây là phố Tam Kung, chứ không phải là phố Tam Lung như sách báo trước đây viết.

9. Báo cáo của Toàn quyền R. Rôbanh gửi Bộ thuộc địa Pháp, ngày 8-6-1931, tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr.88.

11. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.2, tr. 56.

12 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 84 - 85.

13. Thư của Vaxiliêva, chuyên viên của Quốc tế Cộng sản về Đông Dương, ngày 17-11-1936, có đoạn viết: Chứng thực đồng chí Nguyễn Ái Quốc đang là nghiên cứu sinh và là giáo viên của Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Tư liệu lưu Kho lưu trữ lịch sử chính trị - xã hội Nga, ký hiệu: 455.201-1-141.

14. Tư liệu lưu trữ của Quốc tế Cộng sản, ký hiệu: 495.74.261, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

15. Theo bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi gặp gỡ thân mật với Đoàn Chủ tịch Quốc hội Bungari trong chuyến Người đi thăm Bungari tháng 8-1957, đăng trên báo Sự nghiệp công nhân (Rabotnichesko Delo), cơ quan Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Bungari, số 227, ngày 15-8-1957.

16. Urumsi là thủ phủ của Tân Cương, Thiểm Tây.

17. Lan Châu là thủ phủ của Cam Túc.

18. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 138 - 139, 141.

19. Quế Lâm, Liễu Châu, Long Châu thuộc tỉnh Quảng Tây.

20. Quý Dương là thủ phủ của tỉnh Quý Châu.

21. Côn Minh là thủ phủ của tỉnh Vân Nam.

22. Vũ Anh: Bác Hồ về nước, Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng, 1986, tr. 14-15.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,Sđd, t. 7, tr. 58.

24. T.Lan: Vừa đi đường vừa kể chuyện, Sđd, tr. 73.

25,26. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,Sđd, t. 7, tr. 119, 113.

27,28. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,Sđd, t. 7, tr. 127, 129.

29. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr. 198.

30. Báo Việt Nam độc lập, số 101, 1-8-1941.

31. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 469.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,Sđd, t. 7, tr. 312.

33. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr. 506.

34. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t.2, tr.222.

35. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr. 507, 508.

Template by:

Free Blog Templates